Tổng quan:
– Công suất cực đại của bộ phát: 190 kW
– Chi phí: 6,3 triệu USD (phiên bản ban đầu); 10-11 triệu USD (phiên bản -B và -C)
– Chiều cao bộ phát (hình trụ): 1,75 m
– Đường kính bộ phát: 4,88 m với 72 đường thẳng đứng gồm 8 máy thu phát TR-313 (tổng cộng 576 phần tử) nằm trên đó
– Khối lượng bộ thu: khoảng 27 tấn
– Chiều rộng chùm tia (theo hướng): 5°
– Tần số hoạt động của máy phát: 3-192 kHz
– Số trạm thành phần: 22
– Mặt quạt tìm kiếm mìn phía trước: 120°
– Thang đo tìm kiếm mìn: 2,5; 5; 10 và 20 km
– Phạm vi quan sát chế độ chủ động:
+ 7-15 km (phương vị)
+ 18 km (kênh bề mặt)
+ 31 km (phản xạ đáy)
– Phạm vi quan sát chế độ thụ động
+ 22-46 km (phương vị)
+ 63 km (vùng hội tụ 1)
+ 120 km (vùng hội tụ 2)
– Các chế độ làm việc chủ động: xung FM liên tục; xung FM tiếp diễn; xung đa hướng; quét liên tục; giao tiếp dưới nước.
AN/SQS-53 là một hệ thống sonar chủ động/thụ động tầm xa trên các tàu mặt nước của Mỹ do Konzernen General Electric và Raytheon sản xuất (SQS là viết tắt của “Submarine Sonar”, nghĩa là sonar của tàu ngầm).
SQS-53 là thiết bị sonar mạnh nhất mà Hải quân Hoa Kỳ sử dụng trên các tàu mặt nước, là một phiên bản cải tiến của AN/SQS-26CX. Sonar thường được bọc bằng cao su cứng, gắn trong một cái bầu (vòm) hình củ hành. Hệ thống hoạt động ở dải tần thấp, cung cấp khả năng quan sát 360° và là một phần của hệ thống săn ngầm AN/SQQ-89.
Các biến thể
– AN/SQS-53A: Nguyên mẫu cơ bản.
– AN/SQS-53B: Nhờ hệ thống máy tính được cải tiến, SQS-53 là loại sonar đầu tiên của Mỹ có thể được tích hợp hoàn toàn vào hệ thống tác chiến kỹ thuật số của tàu. Hơn nữa, nó hiện có thể được sử dụng để liên lạc dưới nước (“Gertrude”) và như một biện pháp đối phó tích cực chống lại ngư lôi dẫn đường bằng âm thanh. Độ tin cậy của hệ thống cũng được tăng lên.
– AN/SQS-53C: Hiện đại hóa sâu rộng các thiết bị điện tử, cắt giảm một nửa không gian lắp đặt và tăng đáng kể hiệu suất của hệ thống. Những cải tiến hơn nữa đối với các thành phần sonar hiện cho phép theo dõi đồng thời nhiều mục tiêu, có tính đến băng thông tiếp nhận lớn hơn và việc sử dụng đồng thời sonar chủ động và thụ động. Hơn nữa, độ tin cậy và công suất phát chế độ chủ động đã được tăng lên.
– AN/SQS-53D: Trong phiên bản này, nhiều hệ thống máy tính đã được thay thế phần cứng Thương mãi sẵn có COTS (Commercial-Off-The-Shelf) mới và mạnh mẽ hơn.
Tàu mang
Tàu tuần dương lớp Ticonderoga, tàu khu trục lớp Arleigh Burke, lớp Virginia, lớp Kidd
Tổ hợp sonar AN/SQS-53C là loại sonar (chủ động và thụ động) trên tàu mặt nước được điều khiển bằng máy tính, cung cấp thông tin chính xác cho việc điều khiển và dẫn đường vũ khí chống ngầm (ASW). AN/SQS-53C được thiết kế để thực hiện tìm kiếm, phát hiện, định vị và bám sát dưới ngầm trực tiếp từ một mảng đầu dò gắn trên thân tàu. AN/SQS-53C thừa kế cụm đầu dò từ AN/SQS-53A hoặc 53B. AN/SQS-53C cung cấp phạm vi và khả năng phát hiện lớn hơn với chỉ một nửa diện tích thiết bị điện tử và trọng lượng ít hơn so với các phiên bản trước đó. AN/SQS-53C được trang bị mức nguồn cao, chùm tia hoàn toàn ổn định và vùng hội tụ rộng cùng với tính năng phát hiện có sự hỗ trợ của máy tính và quản lý liên lạc tự động. Được triển khai trong các mô-đun điện tử tiêu chuẩn, AN/SQS-53C là một hệ thống kỹ thuật số đồng bộ với hiệu suất ổn định, tự làm mới trực tuyến trong trường hợp có sự cố thành phần và phần mềm giám sát hiệu suất/định vị lỗi để nhanh chóng cô lập các lỗi. AN/SQS-53C hiển thị cự li, phương vị, phương vị thực các mục tiêu một cách biểu kiến ở chế độ chủ động và cung cấp phương vị thực ở chế độ thụ động.
AN/SQS-53 là sonar chống ngầm (ASW) trên tàu mặt nước tiên tiến nhất trong của Hải quân Hoa Kỳ. Nó là một hệ thống tầm xa, công suất cao được phát triển từ AN/SQS-26CX, được sử dụng chế độ chủ động và thụ động để phát hiện và xác định vị trí tàu ngầm. SQS-53B, nằm trong một cái bầu lớn ở mũi tàu, phát hiện, xác định và theo dõi nhiều mục tiêu dưới nước. Với công suất cao hơn và thiết bị xử lý tín hiệu cải tiến, sonar này là cái đầu tiên của hải quân được liên kết trực tiếp với máy tính kỹ thuật số, do đó đảm bảo xử lý thông tin mục tiêu nhanh chóng, chính xác. Chức năng của hệ thống là phát hiện, theo dõi và phân loại các mục tiêu dưới nước. Nó cũng có thể được sử dụng để liên lạc dưới nước, các giải pháp đối phó với vũ khí âm thanh dưới nước và sử dụng ghi âm hải dương học nhất định. Các bộ thu tín hiệu tương đương của tổ hợp sonar AN/SQS-53A/B gắn trên thân tàu đang được nâng cấp kỹ thuật số bằng cách sử dụng bộ xử lý COTS và được đặt tên lại là SQS-53D.
Hệ thống này là phương tiện sonar quan sát cơ bản để theo dõi tất cả hoạt động giao thông trên biển; thường phát hiện các tàu mặt nước ở tầm xa hơn hầu hết các hệ thống radar. Nó có thể phát hiện, xác định và theo dõi nhiều mục tiêu và là sonar trên tàu mặt nước đầu tiên của USN được thiết kế đặc biệt để kết nối trực tiếp với máy tính kỹ thuật số của tàu. Nó có 3 chế độ hoạt động: đôi song bề mặt, quét đáy và vùng hội tụ. Số lượng các quốc gia thuộc “thế giới thứ ba” có thể sử dụng ngư lôi tự dẫn tầm ngắn (Littoral Warfare) đã tăng đều đặn kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Các thiết bị cảm biến như AN/SQS-53C/D sẽ có thể phát hiện ra các tàu mang dạng này trước khi chúng phóng lôi. Nó cũng được sử dụng để “ping” các phao tiêu để xác định vị trí của tàu ở cảng nước ngoài.
Dự án phát triển nâng cấp khả năng chống ngầm kì vọng sẽ phát triển và cập nhật ứng dụng công nghệ cao cho hệ thống chiến đấu và sonar bề mặt. Các nỗ lực tập trung vào việc giải quyết các vấn đề kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp khả năng chống lại các mối đe dọa từ năm 2000 trở lại đây với trọng tâm là vùng nước nông/vùng ven biển (USW) và các dem/val của hệ thống tác chiến tích hợp gần bờ (IUSW-21). Các lĩnh vực công nghệ chính đang được nghiên cứu bao gồm truyền sóng sonar chủ động, xử lý tín hiệu và nâng cao, phân loại sonar chủ động, sonar mảng kéo, sonar bầu (gắn thân tàu) và công nghệ đầu dò, sonar đa tĩnh và tổng hợp dữ liệu đa cảm biến. Nỗ lực chính trong ngắn hạn là phát triển một nguyên mẫu hệ thống sonar kéo chủ động (TARS) trung tần sẽ hoạt động như một phụ trợ kênh thu sâu cho máy phát SQS-53, do đó cung cấp hiệu suất phát hiện tàu ngầm nâng cao đáng kể chống lại các mục tiêu tàu ngầm lặn sâu. Năm tài chính 1999 và các nỗ lực tiếp theo sẽ tập trung vào các lực đẩy chính về công nghệ và hiệu suất cho Tác chiến dưới biển, vốn sẽ xác định khả năng tác chiến mặt nước USW cho hải quân trong thế kỷ XXI (IUSW-21)./.