Tổng quan: (Su-17M-4)
– Tổ lái: 1
– Chiều dài: 19,03 m
– Sải cánh: cánh cụp 10,02 m và cánh xòe 13,68 m
– Chiều cao: 5,12 m
– Diện tích cánh: từ 34,5 m² đến 38,5 m²
– Trọng lượng rỗng: 12.160 kg
– Trọng lượng cất cánh: 16.400 kg
– Trọng lượng cất cánh tối đa: 19.430 kg
– Động cơ: 1 x Lyulka AL-21F-3 76.5 kN – 109.8 kN
– Vận tốc cực đại: 1.400 km/h (755 hl/g) trên biển và 1.860 km/h (1.005 hl/g, Mach 1.7) trên độ cao lớn
– Tầm bay: 1.150 km (tấn công) – 2.300 km (tuần tiễu)
– Bán kính chiến đấu: 360 km (bay thấp) – 630 km (bay cao) khi mang 2.200 kg vũ khí
– Trần bay: 14.200 m
– Vận tốc bay lên: 230 m/s
– Áp lực lên cánh: 443 kg/m²
– Lực đẩy/trọng lượng: 0,68
– Khoảng cách cất cánh: 900 m
– Khoảng cách hạ cánh: 950 m
– Vũ khí:
+ 2 x pháo NR-3030 mm, 80 viên mỗi khẩu
+ 2 x giá treo dưới cánh mang tên lửa không đối không R-60 (AA-8 ‘Aphid’)
+ 10 giá treo cứng mang được 4.250 kg vũ khí (3 vị trí dưới cánh cố định, 4 hoặc 2 trên thân), gồm bom, rocket chùm, bom napalm, vũ khí hạt nhân. Còn có thể mang tên lửa dẫn đường điện tử/quang học Kh-23 (AS-7 Kerry), Kh-25 (AS-10 Karen), Kh-29 (AS-14 Kedge), và Kh-58 (AS-11 Kilter); bom điều khiển laser.
Sukhoi Su-17 (tên NATO: “Fitter“) là một máy bay tấn công của Liên Xô, được phát triển từ máy bay tiêm kích bom Su-7. Loại máy bay này rất thành công, với một thời gian dài phục vụ trong không quân Xô Viết và không quân Nga. Dòng máy bay này được xuất khẩu rộng rãi tới các nước Đông Âu, Châu Á, và Trung Đông.
Lịch sử của Su-22 bắt đầu như một nỗ lực để cải tiến máy bay tiêm kích bom Su-7. Dù Su-7 có một số ưu điểm, bao gồm một bộ khung vững chắc và tốc độ bay thấp hoàn hảo, nhưng cánh nó có những điểm méo mó nhỏ và nó có tốc độ cất cánh hạ cánh lớn do đó đòi hỏi phải có đường băng dài.
Những nghiên cứu của trung tâm khí động học Xô Viết, TsAGI, đã đề xuất một hình dạng cánh cụp cánh xòe. Cánh có hình dạng thay đổi được có thể xòe ra để nâng cao tốc độ ở độ cao thấp và hiệu suất tuần tra, hay cụp lại để bay với tốc độ cao hơn. Vài mẫu cánh VG planform đã được phát triển, cho Su-7 (và máy bay ném bom Tupolev Tu-22), hình dạng được chọn cho phép chỉ phần ở phía ngoài chuyển động, để lại một đoạn cánh phía trong cố định. Ngoài việc làm cho máy bay dễ dàng tương thích với cánh mới, thân máy bay cũng được thiết kế sửa chữa cho phù hợp, bộ phận bánh máy bay được chuyển vào những khoang nhỏ trong cánh thay vì trong thân như trước kia, cho phép mở rộng giá treo vũ khí dưới thân, điểm treo vũ khí dưới cánh được đặt dưới phần cánh cố định.
Một sửa đổi trên Su-7 với cánh mới đã được xây dựng và nó bay lần đầu tiên vào 2/8/1966 với tên gọi là Su-7IG (IG là viết tắt của “izmenyaemoi geometrii”, từ nguyên bản tiếng Nga “изменяемой геометрии” là “có thể thay đổi được hình dạng”) (hay S-22I). Cánh điều khiển bằng tay, nó có thể quay góc 28°, 45°, và 63°. Những kết quả rất khả quan, nó có thể trình diễn bay tốc độ thấp, khoảng cách cất cánh và hạ cánh giảm xuống một nửa, và quan trọng là nó có thể mang được những vũ khí hạng nặng.
Những quan sát viên của Phương Tây đã có những ý niệm mơ hồ về loại máy bay mới đã bay thử tại sân bay Domodedovo, Moskva vào tháng 7/1967, họ được xem như loại máy bay đó là Su-7IG (tên NATO Fitter-B) chỉ bay thử nghiệm, và họ đã rất ngạc nhiên khi các đơn vị không quân của Liên Xô trang bị loại máy bay đó vào năm 1972.
Loại máy bay mới, được biết đến trong các phòng thiết kế là S-32, đã có tên gọi chính thức là Su-17. Trong các hoạt động tại các đơn vị nó thường được gọi với cái tên “Strizh” – “Chim nhạn không chân”. Phiên bản sản xuất chính đầu tiên là Su-17M, với động cơ mạnh hơn và hệ thống điện tử mới, như thùng nhiên liệu thêm ở trên lưng. Một phiên bản xuất khẩu “làm nhẹ bớt” đã được thiết kế với tên gọi Su-20, với các giảm bớt tiêu chuẩn trang bị. Cả ba phiên bản đầu tiên đều được NATO định danh là Fitter-C.
Su-17 được thiết kế chủ yếu cho nhiệm vụ ném bom tấn công các mục tiêu mặt đất. Nó cũng có thể làm nhiệm vụ thứ 2 – tiêm kích phòng không với khả năng mang 2 tên lửa không đối không tầm nhiệt R-60 hoặc K-13, tuy nhiên nhiệm vụ này chỉ là phụ: kết cấu cánh đặc biệt khiến máy bay Su-22 không có khả năng cơ động cao – tính sống còn trong không chiến. Hơn thế, việc không có radar cũng khiến cho Su-22 không có khả năng phát hiện mục tiêu trên không ngoài tầm nhìn của phi công.
Sukhoi OKB sau này đã phát triển một danh sách dài những phiên bản có tính năng ưu việt. Phiên bản dành cho Liên Xô có tên gọi là Su-17, phiên bản xuất khẩu tương đương có tên gọi là Su-22. Khoảng 3000 chiếc Su-17 và các phiên bản của nó đã được sản xuất từ giữa năm 1966 đến khi kết thúc sản xuất vào năm 1991.
Phiên bản cuối cùng mà Liên Xô chế tạo là Su-22M4, có thể mang được 2 tên lửa không đối đất Kh-29 dùng để tấn công các mục tiêu mặt đất (gồm kho tàng, bến bãi, nhà xưởng, cầu cống, sân bay) hoặc tàu chiến trên biển. Kh-29 được trang bị đầu đạn nặng 320 kg, trong đó có 116 kg chất nổ mạnh. Tên lửa sử dụng động cơ nhiên liệu rắn cho phép đạt tốc độ tối đa 2.900 km/h, tầm bắn đạt 10-30 km tùy từng biến thể. Kh-29 có khả năng gây hư hỏng nặng tàu chiến có lượng giãn nước lên tới 10.000 tấn. Ngoài tên lửa Kh-29, Su-22 cũng có thể mang tên lửa chống radar Kh-28 có tầm bắn lên đến 110 km, đầu đạn 140 kg, sử dụng phương pháp dẫn bắt kết hợp giữa dẫn hướng quán tính và radar thụ động pha cuối để tiêu diệt các trạm radar.
Liên Xô đã sử dụng Su-17 rộng rãi trong Chiến tranh Afghanistan, với 100-150 chiếc phục vụ trong cuộc chiến đó. Su-17 đã hoạt động liên tục trong điều kiện khắc nghiệt của vùng sa mạc, với những sân bay nằm ở độ cao lớn, nhiệt độ cao, nhiều bụi cát… Mức độ sẵn sàng chiến đấu của Su-17 vượt qua cả máy bay cường kích Su-25 và các trực thăng vũ trang. Vào mùa hè, mật độ xuất kích của Su-17 tăng gấp rưỡi. Một số chiếc đã bị bắn hạ bởi tên lửa đất đối không FIM-92 Stinger của Mỹ. 3 chiếc Su-22 đã bị bắn hạ trên không bởi những chiếc F-16 của Pakistan, khi những chiếc máy bay của Liên Xô bay lạc vào trung tâm vũ trụ của Pakistan.
Do được thiết kế cho nhiệm vụ không kích mặt đất nên khả năng cơ động của Su-17 khá kém, dù phiên bản cải tiến Su-7B đã có những thay đổi. Nó khá lớn, gây tiếng ồn cao và tạo nhiều khói. Dù được thiết kế với nhiệm vụ chính là tấn công mặt đất, nhưng nó lại phải tham gia không chiến tương đối nhiều (bởi phần lớn các nước sử dụng nó là những nước nhỏ, không có nhiều máy bay kiểu khác để lựa chọn), và tất nhiên nó dễ bị đánh bại bởi máy bay tiêm kích đối phương trong tình huống đó. Ngoài ra, khả năng bảo trì thấp, chiến thuật kém của các nước này cũng dẫn đến nhiều tổn thất không đáng có đối với Su-17.
Ở Syria, các máy bay Su-20 và Su-22 (phiên bản xuất khẩu của Su-17) của nước này đã được sử dụng trong cuộc chiến Yom Kippur năm 1973 và chiến tranh Lebanon 1982, nhiều chiếc bị Không quân Isarel bắn hạ.
Những chiếc ‘Fitter’ cánh cụp cánh xòe cũng được sử dụng trong chiến tranh ở Libya và Iraq. 2 chiếc Fitter của Libya đã bị bắn hạ trong sự kiệm Vịnh Sidra bởi những chiếc F-14 của hải quân Hoa Kỳ vào 19/8/1981. Nhiều chiếc cũng đã bị mất trong suốt chiến trang Iran-Iraq vào những năm 1980, và hơn 6 chiếc đã bị không quân Hoa Kỳ phá hủy trong Chiến tranh vùng vịnh.
Trong các cuộc chiến vùng Vịnh 1991, Không quân Iraq tiếp tục mất thêm nhiều máy bay Su-22 vì bị các máy bay F-15C tấn công, cũng như vì các cuộc tấn công mặt đất.
Tại Angola, trong giai đoạn 1987-1994, các máy bay Su-22 đã tham chiến không kích phiến quân UNITA và một số đã bị bắn hạ.
Không quân Yemen đã bị mất một số Su-22 vì lý do kĩ thuật và hỏa lực phòng không khi sử dụng các máy bay Su-22 để chống lại các lực lượng nổi dậy ở nước này.
Tại Nam Mỹ, Peru là nước duy nhất có trang bị máy bay Su-22. Ngày 24/4/1992, một chiếc Su-22 đã tấn công máy bay vận tải C-130H Hercules của Mỹ ở phía tây Lima, làm 6 trong số 14 thành viên phi hành đoàn bị thương vong. Sự việc này đã gây ra những sự cố chính trị – ngoại giao nghiêm trọng giữa hai nước.
Tiếp đó, vào năm 1995, chiến tranh giữa Peru và Ecuador bùng nổ. Những chiếc Su-22 đã thực hiện khoảng 45 phi vụ chiến đấu. Ngày 10/2/1995, hai chiếc Mirage F1JA của Ecuador đã bắn hạ hai chiếc Su-22 của Peru tại vùng thung lũng Cenepa. Sau đó, Peru tổ chức phản công gồm 20 chiếc Su-22 ở El Pato, nên phía Ecuador đã dừng việc tấn công các cảng biển của nước này.
Không quân Nga đã cho những chiếc Su-17 về hưu, nhưng còn khoảng 300 chiếc vẫn đang hoạt động trong biên chế của không quân các nước khác trên thế giới.
Tham gia chiến dịch CQ-88 ở Việt Nam
Không quân Việt Nam bắt đầu nhận máy bay Su-22M/UM, một biến thể cải tiến của Su-17, từ năm 1979 để dần thay thế cho các loại máy bay chiến đấu MiG-17, MiG-19 đã lạc hậu. Su-22 là chiến đấu cơ phản lực đầu tiên của không quân Việt Nam bay ra được tới quần đảo Trường Sa. Sáng ngày 10/2/1988, phi công Vũ Xuân Cương đã thành công chuyến bay nhiệm vụ đầu tiên trên cường kích Su-22M (số hiệu 5815) từ Phan Rang ra tuần tiễu Trường Sa.
Sau thảm sát Trường Sa, ngày 30/3/1988, Việt Nam quyết định tăng cường bay huấn luyện trên biển xa cho phi đội Su-22M nhằm nâng cao khả năng tác chiến trên biển. Ngày 24/4, 3 chiếc Su-22M được điều từ Thọ Xuân (Thanh Hóa) vào Phan Rang. Cuối tháng 6, có thêm 10 chiếc Su-22M nữa vào Phan Rang. Từ Phan Rang bay ra Trường Sa là gần 600 km. Thời điểm đó, phương tiện dẫn đường của Việt Nam chỉ có bán kính 300 km nên sau đó phi công phải tự bay 300 km nữa mà không có dẫn đường. Giữa biển cả, việc xác định vị trí là cực kỳ khó khăn, không có địa tiêu nào để phi công dựa vào phán đoán tọa độ, thời tiết lại hay thay đổi đột ngột. Bán kính tác chiến của Su-22M là 630 km, chỉ vừa đủ để tới Trường Sa, vì vậy nếu sai lệch về hướng bay thì không còn đủ nhiên liệu để về đến đất liền. Các đơn vị Su-22M phải khắc phục rất nhiều khó khăn và cả nguy hiểm để huấn luyện cấp tốc việc bay ra đảo Trường Sa.
Ngày 14/4/1988, con tàu không số của Lữ đoàn 125 chở theo 35 lính công binh và 7 lính hải quân của đơn vị c7, d3, e83 (Trung đoàn Công binh) do Tư lệnh Vùng 4 Hải quân chỉ huy quay lại quần đảo Trường Sa Từ 2h sáng, Hải quân Việt Nam bí mật cho xuồng nhỏ vào thăm dò, rồi tiếp cận, cắm cờ lên đảo Len Đao. Buổi sáng, phát hiện Việt Nam cắm cờ ở Len Đao, Trung Quốc cho 7 tàu chiến và vô số xuồng nhỏ bao vây đảo. Lúc này, 7 máy bay chiến đấu Su-22M của Việt Nam bay từ đất liền ra quần đảo. Thấy máy bay chiến đấu của Việt Nam, ngay lập tức phía tàu Trung Quốc tản ra. Bộ đội Việt Nam tiếp tục xây dựng công sự và bảo vệ đảo Len Đao cho đến ngày hôm nay.
Tai nạn
Tính đến tháng 26/07/2018, sau gần 50 năm phục vụ trên khắp thế giới, đã có ít nhất 113 chiếc Su-17/20/22 bị rơi do tai nạn. So với khoảng 2.687 chiếc Su-17/20/22 được chế tạo thì tỷ lệ rơi do tai nạn là 4,3%, tỷ lệ này còn thấp so với những máy bay tiên tiến hơn của phương Tây như F-15 Eagle (tỷ lệ rơi do tai nạn là 10,1%), F-16 Fighting Falcon (14,4%), F/A-18 Hornet (12%).
Chiều 31/01/2023, Bộ Quốc phòng Việt Nam xác nhận thông tin máy bay Su-22, số hiệu 5873 của Trung đoàn Không quân 921, Sư đoàn 371, Quân chủng Phòng không – Không quân bị rơi trong lúc huấn luyện tại Yên Bái (tai nạn khi hạ cánh lúc 12.27), Đại úy phi công Trần Ngọc Duy (sinh năm 1992) hy sinh. Trước đó vài năm, ngày 26/7/2018, chiếc Su-22U, số hiệu 8551, cũng của Trung đoàn 921, đã bị rơi tại tỉnh Nghệ An, 2 phi công hi sinh.
Các phiên bản
– Su-7IG (‘Fitter-B’): chuyển đổi từ Su-7BMK để xây dựng khái niệm bay.
– “Fitter-C” (tên NATO giống với một số phiên bản), gồm Su-17, 17M, 17R:
– Su-17: được chế tạo lại với số lượng nhỏ (khoảng 24 chiếc) vào năm 1969, được dựa trên mẫu Su-7U huấn luyện 2 chỗ, với phần lưng phình lên cho các bình chứa nhiên liệu (4.550 lít). Nó giữ lại động cơ Lyulka AL-7F-1 của Su-7 (68,64 kN lực đẩy chính hay 99,12 kN khi đốt nhiên liệu lần 2).
– Su-17M: phiên bản sản xuất chính, bắt đầu sản xuất vào năm 1971, gồm động cơ Lyulka AL-21F-3, 2 chỗ, hệ thống dẫn đường/tấn công mới (giữ lại radar khoảng cách SRD-5M, dù hãm ở đuôi của Su-7BMK). Có vận tốc cực đại là Mach 2.1, phiên bản xuất khẩu tương đương có tên gọi là Su-20.
– Su-17R: một số nhỏ máy bay Su-17M trang bị hệ thống trinh sát. Phiên bản xuất khẩu tương đương có tên gọi là Su-20R.
– Su-17M-2D (‘Fitter-D’): giới thiệu trong năm 1974 với phần mũi mở rộng 38 cm, loại bỏ radar khoảng cách để cải thiện tầm nhìn của phi công. Phần mũi chứa hệ thống tìm đường laser/dò tìm mục tiêu (LRMTS), radar dẫn đường DISS-7 Doppler. Phiên bản xuất khẩu có tên gọi Su-17M-2K (‘Fitter-F’), loại bỏ LRMTS, thay thế động cơ cũ bằng động cơ Tumanskii/Khatchaturov R-29BS-300 (tương tự như trên MiG-23) công suất sau khi đốt nhiên liệu lần 2 là 112.76 kN.
– Su-17UM-2D (‘Fitter-E’): phiên bản huấn luyện 2 chỗ đầu tiên, dựa trên Su-17M-2D, nhưng có một số điểm khác biệt, thân máy bay dài hơn do kính chắn gió di chuyển lên phía trước, có cùng chiều dài như Su-17M. Khả năng mang nhiên liệu bên trong bị giảm bớt và pháo cũng bị loại bỏ, nhưng có hệ thống điện tử và vũ khí đầy đủ. Phiên bản xuất khẩu, sử dụng động cơ R-29BS-300 giống như Su-17M-2K, có tên gọi là Su-17UM-2K.
– Su-17UM-3 (‘Fitter-G’): phiên bản huấn luyện được nâng cao lên, cánh đuôi thẳng đứng và cánh bụng có thể dời đi được. Không giống đa số những model sau của Fitter, nó giữ lại đầu vào không khí, cho phép máy bay đạt được vận tốc Mach 2.1. Hệ thống điện tử không chiến bị loại bỏ cho hệ thống mới cho phép giáo viên mô phỏng những cuộc tấn công và tình trạng khẩn cấp khi đang bay. Phiên bản huấn luyện có tên gọi Su-22UM-3K, một số sử dụng động cơ Lyulka, còn số khác dùng động cơ Tumanskii/Khatchaturov.
– Su-17M-3 (‘Fitter-H’): phiên bản ghế đơn dựa trên Su-17UM-2D, nhưng chỉ với buồng lái đơn, giữ lại 2 pháo. Radar Doppler di chuyển vào trong. Giá treo tên lửa K-13 (AA-2 ‘Atoll’) hoặc R-60 (AA-8 ‘Aphid’) được thêm vào giữa 2 giá treo mỗi cánh. Khả năng chứa nhiên liệu bên trong gia tăng với 4.850 lít. Phiên bản xuất khẩu, giống phần lớn ngoại trừ sử dụng động cơ R-29BS-300, có tên gọi Su-22M-3K (‘Fitter-J’).
– Su-22M4
– Su-17M-4 (‘Fitter-K’): phiên bản sản xuất cuối cùng, sản xuất bắt đầu vào năm 1980, với việc nâng cấp đáng kể hệ thống điện tử, gồm hệ thống dẫn đường RSDN (giống với LORAN), dẫn đường tín hiệu, dẫn đường quán tính, hệ thống đo khoảng cách laser mạnh hơn, sóng định vị vô tuyến, và hệ thống radar cảnh báo SPO-15LE (‘Sirena’). Thêm những khe nạp không khí bổ sung (gồm bộ nạp không khí ở cánh) để có thêm luồng không khí làm mát động cơ. ‘Fitter-K’ trang bị tên lửa tự dẫn truyền hình và vũ khí chùm tên lửa chống radar BA-58 Vjuga. Tùy chọn thêm hệ thống phòng thủ gồm các chùm kim loại gây nhiễu, pháo sáng gây nhiễu. Phiên bản xuất khẩu có tên gọi Su-22M-4.
– Su-22M-5: phiên bản nâng cấp trọn gói của Nga-Pháp liên doanh cho các máy bay hiện nay, với buồng lái hiện đại, HOTAS, hệ thống điện tử cải tiến. Xóa bỏ hệ thống đo khoảng cách laser thay vào đó là radar Phazotron/Thomson-CSF ‘Phathom’.
Các nước sử dụng: Armenia, Afghanistan, Algérie, Angola, Azerbaijan, Belarus, Bulgaria, Séc, Tiệp Khắc, Đông Đức, Ai Cập, Đức, Hungary, Iraq, Iran, Libya, Triều Tiên, Peru, Ba Lan, Liên Xô, Nga, Slovakia, Syria, Turkmenistan, Ukraina, Uzbekistan, Yemen.
Việt Nam: Khoảng 34 Su-22M4 hiện đang hoạt động trong Không quân Nhân dân Việt Nam./.