TÀU NGẦM HẠT NHÂN SSN LỚP Seawolf

Tổng quan:
– Kiểu loại: Tàu ngầm hạt nhân tấn công
– Nhà máy đóng tàu: General Dynamics Electric Boat
– Lớp trước: Los Angeles
– Lớp sau: Virginia
– Chi phí: 5 tỷ USD cho mỗi tàu (thời giá 2018)
– Được đóng: 1989-2005
– Trong biên chế: từ 1997 đến nay
– Kế hoạch: 29 chiếc
– Đã hoàn thành: 3 (đang hoạt động)
– Lượng giãn nước: 8.600 tấn (khi nổi); 9.138 tấn (khi lặn); (12.139 tấn, USS Jimmy Carter)
– Chiều dài: 108 m (138,0 m – USS Jimmy Carter)
– Độ rộng: 12 m
– Động lực đẩy
+ 1 S6W PWR 57.000 shp (43 MW), HEU 93,5%
+ 1 động cơ đẩy ngầm thứ cấp
+ 1 trục
+ 1 chân vịt phản lực bơm
– Tốc độ:
+ 20 hl/g (37 km/h) (chế độ im lặng)
+ 35 hl/g (65 km/h) (tối đa)
– Tầm hoạt động: không giới hạn
– Độ sâu thử nghiệm: 490 m
– Thủy thủ đoàn: 140 người (14 sĩ quan, 126 nhập ngũ)
– Vũ khí: Ống phóng lôi 8 x 26,5 inch, có thể cho vũ khí 21 inch (lên đến 50 tên lửa tấn công mặt đất Tomahawk/tên lửa chống hạm Harpoon/ngư lôi hạng nặng Mk 48 mang trong khoang ngư lôi).

Seawolf là một lớp tàu ngầm tấn công nhanh chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSN) trong biên chế của Hải quân Hoa Kỳ. Lớp này là lớp dự kiến kế thừa ​​cho lớp Los Angeles, và công việc thiết kế bắt đầu vào năm 1983. Một hạm đội gồm 29 tàu ngầm dự kiến sẽ được xây dựng trong thời gian 10 năm, nhưng sau đó đã giảm xuống còn 12 chiếc. Chiến tranh Lạnh kết thúc và những hạn chế về ngân sách đã dẫn đến việc hủy bỏ bất kỳ sự bổ sung nào nữa cho hạm đội vào năm 1995, khiến lớp Seawolf bị giới hạn chỉ có 3 chiếc. Điều này dẫn đến việc thiết kế lớp Virginia nhỏ hơn. Lớp Seawolf có giá khoảng 3 tỷ USD một chiếc (3,5 tỷ USD cho USS Jimmy Carter, thời giá 1995), khiến nó trở thành tàu ngầm SSN đắt nhất và đắt thứ hai từ trước đến nay, sau lớp SSBN Triomphant của Pháp.

Thiết kế Seawolf nhằm chống lại mối đe dọa từ các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo tiên tiến của Liên Xô như lớp Typhoon và tấn công các tàu ngầm như lớp Akula trong môi trường đại dương sâu. Vỏ tàu lớp Seawolf được chế tạo từ thép HY-100, loại thép này cứng hơn thép HY-80 được sử dụng trong các lớp trước đó, để chịu được áp lực nước ở độ sâu lớn hơn.

Tàu ngầm Seawolf lớn hơn, nhanh hơn và yên tĩnh hơn đáng kể so với các tàu ngầm lớp Los Angeles trước đây; chúng cũng mang nhiều vũ khí hơn và có số lượng ống phóng lôi nhiều gấp đôi. Các tàu này có thể mang tới 50 tên lửa hành trình UGM-109 Tomahawk để tấn công các mục tiêu trên bộ và trên mặt biển. Các tàu cũng có nhiều thiết bị cho phép hoạt động ở vùng nước nông. Lớp tàu này sử dụng hệ thống chiến đấu ARCI Modified AN/BSY-2 tiên tiến hơn, bao gồm một sonar mảng hình cầu lớn hơn, một mảng khẩu độ rộng (WAA) và một sonar mảng kéo mới. Mỗi tàu được cung cấp năng lượng bởi một lò phản ứng hạt nhân S6W, cung cấp 45.000 mã lực (34 MW) cho một máy bơm phản lực tiếng ồn thấp.

Tuy nhiên, do thiết kế tiên tiến của chúng, tàu ngầm Seawolf đắt hơn nhiều. Chi phí dự kiến ​​cho 12 tàu ngầm lớp này là 33,6 tỷ USD, nhưng việc xây dựng đã bị dừng lại ở 3 chiếc khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.

USS Jimmy Carter dài hơn khoảng 30 m so với 2 tàu khác cùng lớp, do được chèn thêm một phần được gọi là Nền tảng đa nhiệm MMP (Multi-Mission Platform) cho phép khởi động và phục hồi các phương tiện hoạt động dưới nước từ xa ROV (operated underwater vehicles) và đặc nhiệm hải quân SEALs. MMP cũng có thể được sử dụng như một buồng nối dưới nước để khai thác các cáp quang dưới biển. Vai trò này trước đây được đảm nhiệm bởi tàu USS Parche hiện đã ngừng hoạt động. Jimmy Carter đã được sửa đổi cho vai này bởi General Dynamics Electric Boat với chi phí 887 triệu USD.

Tàu trong lớp:
Seawolf SSN-21, biên chế 19/7/1997
Connecticut SSN-22, biên chế 11/12/1998
Jimmy Carter SSN-23, biên chế 19/2/2005./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *