TÀU TUẦN DƯƠNG LỚP Kresta II

Tổng quan:
– Nhà máy đóng tàu: Zhdanov, Leningrad
– Nhà điều hành: Hải quân Liên Xô, Nga
– Lớp trước: Kresta I
– Lớp sau: Kara
– Lịch sử xây dựng: 1966-1977
– Lịch sử phục vụ: 1969-1993
– Hoàn thành: 10
– Nghỉ hưu: 10
Kiểu loại: tàu tuần dương tên lửa dẫn đường
– Lượng giãn nước: 5.600 tấn (tiêu chuẩn); 7.535 tấn (đầy tải)
– Chiều dài: 159 m
– Độ rộng: 17 m
– Mớn nước: 6 m
– Động lực đẩy: Tuabin hơi 2 trục, 4 nồi hơi; 91.000-100.000 mã lực (68-75 MW)
– Tốc độ: 34 hl/g (63 km/h)
– Phạm vi hoạt động:
+ 10.500 hl (19.400 km) ở tốc độ 14 hl/g (26 km/h)
+ 5.200 hl (9.600 km) ở tốc độ 18 hl/g (33 km/h)
– Nhiên liệu (dầu cháy): 1.830 tấn
– Quân số: 380
– Khí tài: Radar Don Kay, Don-2, Top Sail, Head Net 2 x Head Lights 2 x Muff Cob, 2 x Bass Tilt; Sonar Bull Nose
– Vũ khí:
+ 2 × tên lửa chống ngầm Metel SS-N-14 ‘Silex’
+ 2 × bệ phóng tên lửa đất đối không Shtorm SA-N-3 ‘Goblet’ đôi (72 tên lửa)
+ 2 × súng phòng không AK-725 nòng đôi 57-mm/70-cal
+ 4 × 30 mm AK-630 CIWS
+ 2 × 5 ống phóng ngư lôi 533mm
+ 2 x bệ phóng rocket chống ngầm 12 nòng RBU-6000
+ 2 x bệ phóng rocket chống ngầm 6 nòng RBU-1000
– Máy bay chở: 1 × trực thăng dòng Ka-25
– Cơ sở hàng không: sàn đỗ trực thăng và nhà chứa máy bay.

Lớp Kresta II, tên định danh của Liên Xô là Project 1134A Berkut A (đại bàng vàng), là một lớp tàu tuần dương tên lửa dẫn đường (tàu tác chiến chống ngầm lớn trong phân loại của Liên Xô) do Liên Xô chế tạo cho Hải quân Liên Xô. NATO liệt kê lớp này là “tàu tuần dương” chủ yếu do hệ thống tên lửa chống hạm Metel (SS-N-14 Silex) có khả năng tấn công không chỉ tàu ngầm mà cả tàu mặt nước.

Lớp Kresta II là một dẫn xuất chống ngầm của tàu tuần dương lớp Kresta I, và được trang bị tên lửa chống ngầm mới (SS-N-14), tên lửa đất đối không mới (SA-N-3) và sonar tiên tiến. Conway tuyên bố rằng ba con tàu đầu tiên đã được trang bị tên lửa chống hạm SS-N-9 nhưng học thuyết hải quân của Liên Xô đã thay đổi, tập trung nhiều hơn vào tác chiến chống ngầm. Các tên lửa đất đối không bao gồm tên lửa SA-N-3 tiên tiến hơn với hai ống phóng đôi. Radar tìm kiếm 3D mới và radar điều khiển hỏa lực mới cũng được trang bị. 4 CIWS 30 mm cũng được trang bị để cải thiện khả năng phòng thủ chống tên lửa. Một sonar tiên tiến hơn dẫn đến mũi tàu bị cào mạnh hơn. Bộ máy móc bao gồm hai tuabin hơi TV-12 với nồi hơi áp suất cao, giống với lớp Kresta I.

Tàu trong lớp
– Kronstadt, biên chế 29/12/1969, loại biên 24/6/1991.
Đô đốc Isakov, biên chế 28/12/1970 , loại biên 30/6/1993.
– Đô đốc Nakhimov, biên chế 29/11/1971, loại biên 31/1/1991.
– Đô đốc Makarov, biên chế 25/10/1972, loại biên 3/7/1992.
– Khabarovsk, biên chế 15/9/1973, loại biên 3/7/1992.
– Đô đốc Oktyabrsky, biên chế 28/12/1973, loại biên 30/6/1993.
– Đô đốc Isachenkov, biên chế 5/11/1974, loại biên 3/7/1992.
– Nguyên soái Timoshenko, biên chế 25/11/1975, loại biên 3/7/1992.
– Vasily Chapaev, biên chế 30/11/1976, loại biên 30/6/1993.
– Đô đốc Yumashev, biên chế 30/12/1977, loại biên 13/7/1992./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *