Tổng quan:
– Kiểu loại: tên lửa không đối không dẫn đường hồng ngoại tầm ngắn
– Xuất xứ: Liên Xô
– Lịch sử phục vụ: từ 1961
– Nhà chế tạo: Vympel
– Trọng lượng: 90 kg (R-13M)
– Chiều dài:
+ 2,830 m (R-13M, R-3S)
+ 3,420 m (R-3R)
– Đường kính: 127 mm
– Đầu đạn: 7,4 kg
– Động cơ: động cơ tên lửa nhiên liệu rắn
– Sải cánh: 631 mm (R-13M); 530 (R-3S, R-3R)
– Phạm vi hoạt động: 1,0-3,5 km
– Tốc độ tối đa: Mach 2.5
– Dẫn hướng: (R-3S) hồng ngoại dẫn đường ; (R-3R) SARH
– Nền tảng mang: MiG-21, MiG-23, MiG-19; Sukhoi Su-17/20/22
– Trọng lượng phóng: (R-3S) 75 kg; (R-3R) 93 kg
– Phạm vi: tối đa 0,9-7 km, hiệu quả 2 km
– Đầu đạn: SB03 11,3 kg nổ phân mảnh
– Hàm lượng chất nổ: 5,3 kg TGAF-5 (40% TNT, 40% RDX, 20% bột nhôm)
– Ngòi nổ: tiệm cận loại 428 và ngòi nổ tiếp xúc I-107 (R-3R).
Vympel K-13 (tên NATO – AA-2 “Atoll”) là tên lửa không đối không tầm ngắn dẫn đường bằng hồng ngoại do Liên Xô phát triển. Nó có hình dáng và chức năng tương tự như AIM-9B Sidewinder của Mỹ mà từ đó nó được thiết kế ngược lại. Mặc dù kể từ đó nó đã được thay thế bằng các tên lửa hiện đại hơn trong biên chế tiền tuyến, nhưng nó đã được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia.
Bối cảnh – tên lửa Sidewinder
Trong cuộc Khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai vào năm 1958, những chiếc F-86 Sabre của Đài Loan đã phải đối mặt với những chiếc MiG-17 của Không quân Trung Quốc đại lục (PLAAF) có hiệu suất cao hơn nhiều. Những chiếc MiG-17 có lợi thế về tốc độ, khả năng cơ động và độ cao so với Saber, cho phép chúng chỉ tham chiến khi chúng muốn, thường là vào những thời điểm thuận lợi. Đáp lại, Hải quân Hoa Kỳ đã gấp rút sửa đổi 100 chiếc ROCAF Sabre để mang tên lửa AIM-9 Sidewinder mới được giới thiệu. Những chiếc này được đưa vào chiến đấu vào ngày 24/9/1958, khi một nhóm MiG-17 bay ngang qua một chuyến bay của Sabre, chỉ để thấy mình bị tấn công bởi hỏa lực tên lửa. Đây là trường hợp đầu tiên tên lửa dẫn đường được sử dụng trong chiến đấu không đối không.
Vào ngày 28/9/1958, một cuộc giao tranh tương tự đã dẫn đến việc một trong các tên lửa bị kẹt trong chiếc MiG-17 mà không phát nổ, cho phép nó được gỡ bỏ sau khi hạ cánh. Sau đó, Liên Xô biết rằng người Trung Quốc có ít nhất một chiếc Sidewinder, và sau một số tranh cãi, họ đã thuyết phục được người Trung Quốc gửi cho họ một trong những tên lửa thu được. Gennadiy Sokolovskiy, sau này là kỹ sư trưởng của nhóm Vympel, nói rằng “tên lửa Sidewinder đối với chúng tôi là một trường đại học cung cấp khóa học về công nghệ chế tạo tên lửa đã nâng cấp nền giáo dục kỹ thuật của chúng tôi và cập nhật phương pháp sản xuất tên lửa trong tương lai của chúng tôi”.
Một tuyên bố sau đó được Ron Westrum đưa ra trong cuốn sách Sidewinder của ông rằng Liên Xô đã có được các kế hoạch cho Sidewinder từ Đại tá Thụy Điển và gián điệp bị kết án Stig Wennerström, và đưa phiên bản của họ vào sử dụng vào năm 1961, sao chép nó sát sao đến mức ngay cả số bộ phận cũng bị trùng lặp. Mặc dù Wennerstrom đã tiết lộ thông tin về Sidewinder sau khi đàm phán mua nó cho Thụy Điển, nhưng không có nguồn nào của Liên Xô đề cập đến điều này, trong khi tất cả đều đề cập rõ ràng đến ví dụ của Trung Quốc.
Phát triển và sử dụng sớm
Sidewinder nhanh chóng được đảo ngược kỹ thuật thành K-13 (còn được gọi là R-3 hoặc Object 300) và được đưa vào phục vụ hạn chế chỉ hai năm sau đó vào năm 1960. Tiếp theo là K-13A cải tiến (R-3S, Object 310), được đưa vào sử dụng vào năm 1962. R-3S là phiên bản đầu tiên được đưa vào sản xuất rộng rãi, mặc dù thời gian giải quyết của người tìm kiếm rất dài theo thứ tự 22 giây, trái ngược với 11 giây đối với phiên bản gốc.
R-3S đã được phương Tây nhìn thấy vào năm 1961 và được NATO đặt tên là AA-2A ‘Atoll’. Phạm vi tham gia tối thiểu cho R-3S là khoảng 1 km. Tất cả các biến thể K-13 đều giống với Sidewinder về mặt vật lý, chia sẻ đường kính 127 mm. Sau đó, cuộc kiểm tra các tên lửa AA-2 do lực lượng NATO thu được cho thấy các bộ phận từ AIM-9 có thể được hoán đổi với các bộ phận từ AA-2 và một trong hai tổ hợp vẫn hoạt động.
Trong khi R-3S được giới thiệu vào năm 1961, công việc bắt đầu trên phiên bản dẫn đường bằng radar bán chủ động (SARH) để sử dụng ở độ cao lớn, K-13R (R-3R hoặc Object 320) với tầm bắn 8 km, tương tự như loại AIM-9C Sidewinder ít được sử dụng của Hải quân Hoa Kỳ (do F-8 Crusader mang theo). Phiên bản này mất nhiều thời gian hơn để phát triển và không được đưa vào sử dụng cho đến năm 1966. Phiên bản này được NATO định danh là AA-2B.
Ba phiên bản huấn luyện cũng đã được phát triển. R-3U (“uchebnaya”, nghĩa là “huấn luyện”) là một thân tên lửa rỗng với bộ dẫn hướng, cho phép phi công làm quen với việc nhắm mục tiêu của hệ thống. R-3P (“prakticheskaya”, nghĩa là “thực tế”) là một tên lửa hoàn chỉnh không có đầu đạn nổ. RM-3V (“raketa-mishen”, nghĩa là “tên lửa mục tiêu”) đóng vai trò là mục tiêu trên không.
Phiên bản sau
Nhóm Vympel bắt đầu thực hiện một bản nâng cấp đầy tham vọng hơn vào cuối những năm 1960, nổi lên là K-13M (R-13M, Object 380) cho IRH và K-13R (R-3R) cho biến thể SARH, được phát triển trong cuối những năm 1960. Chúng được định danh là Advanced Atoll (AA-2C và AA-2D tương ứng) ở phương Tây. R-13M gần tương đương với AIM-9G Sidewinder cải tiến của Hải quân Hoa Kỳ, với ngòi nổ tiệm cận mới, nhiều nhiên liệu đẩy hơn cho tầm bắn xa hơn, khả năng cơ động tốt hơn và đầu tìm kiếm làm mát bằng nitơ nhạy hơn. Các nâng cấp điện tử tương tự cũng được áp dụng cho Kaliningrad K-5 (AA-1) để trang bị cho các máy bay chiến đấu không mang K-13.
K-13 trong các phiên bản khác nhau đã được xuất khẩu rộng rãi cho Khối Hiệp ước Warsaw và các lực lượng không quân khác, và vẫn phục vụ trong một số quốc gia nhỏ hơn. Một phiên bản chế tạo theo giấy phép có tên A-91 được chế tạo ở Romania và Trung Quốc đã sao chép K-13 thành PL-2. Các phiên bản tiếng Trung được cập nhật là PL-3 và PL-5. Liên Xô đã cung cấp cho Trung Quốc công nghệ tên lửa K-13 như một phần của thỏa thuận máy bay chiến đấu MiG-21 vào năm 1962. Năm 1967, Trung Quốc hoàn thành thành công các cuộc thử nghiệm tên lửa K-13 (PL-2) sản xuất trong nước và bắt đầu triển khai tên lửa này cho các đơn vị chiến đấu. Nó lần đầu tiên được sử dụng để đánh chặn UAV của USAF bay từ Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác đến Trung Quốc đại lục.
Lịch sử hoạt động
– Tên lửa K-13 được sử dụng bởi các phi công MiG-21 của Bắc Việt Nam. Do số lượng MiG-21 rất hạn chế của QĐNDVN, chiến thuật phổ biến của Không quân Bắc Việt là tiếp cận đội hình của Mỹ với tốc độ hợp lý tối đa, bắn tên lửa theo loạt và rời khỏi khu vực với tốc độ tối đa để tránh giao tranh.
– Một số tên lửa này đã bị Israel thu giữ trong Chiến tranh Sáu ngày ở Bán đảo Sinai. Chúng được sử dụng trong Chiến tranh tiêu hao, bởi Phi đội 101 (Mirage IIICJ) và có lẽ cả các phi đội 117 và 119, tất cả các phi đội Mirage của Lực lượng Không quân Israel. Vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, Israel đã bắn hạ hàng chục chiếc MiG – nhưng không thành công trong việc sử dụng tên lửa này, vì các phi công Israel thích sử dụng pháo hoặc tên lửa bản địa như Shafrir 1 và Shafrir 2.
– Tên lửa K-3 hoặc K-13 cũng được Không quân Ấn Độ sử dụng trong Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan năm 1971; chúng được tích hợp trên những chiếc MiG-21FL và được sử dụng để bắn hạ ít nhất 2-4 chiếc F-104 Starfighter của Pakistan. Chúng được Không quân Ả Rập sử dụng trong Chiến tranh Yom Kippur năm 1973, và trong Chiến tranh Iran-Iraq bởi Không quân Iraq từ năm 1980 đến 1988.
– Vào ngày 19/8/1981, trong sự cố Vịnh Sidra năm 1981, một chiếc Su-22 của Không quân Libya đã bắn một tên lửa K-13 vào chiếc F-14 As của Hải quân Hoa Kỳ đang tiếp cận; tên lửa đã bị bắn trượt.
Nhà khai thác (35 nước)
Áp-ga-ni-xtan; An-giê-ri; Ăng-gô-la; Băng-la-đét; Bulgari; Trung Quốc; Tiệp Khắc; Đông Đức; Ai Cập; Phần Lan; Đức; Hungary; Ấn Độ; Indonesia; I-rắc; Lybia; Mali; Ni-giê-ri-a; Bắc Yemen; Nam Yemen; Pa-ki-xtan; Peru; Ba Lan; Ru-ma-ni; Xéc-bi-a; Somali; Liên Xô; Su-đăng; Syria; Yemen; Israel; Cuba; Eritrea; Bắc Triều Tiên; Việt Nam./.