Tổng quan:
– Nhà máy đóng tàu: Yaroslavl; Sredne-Nevsky; Sosnovskiy, Sosnovka; Kraljevica, Nam Tư
– Nhà vận hành (khoảng 16 nước): Liên Xô, Ăng-gô-la, Bulgaria, Campuchia, Cape Verde, Congo, Ai Cập, Đông Đức, Guinea, Guinea-Bissau, Việt Nam, Nam Tư, Ethiopia, Iraq, Somalia, Sri Lanka
– Lớp sau: Turya (Project 206)
– Lịch sử xây dựng: 1960-1970
– Hoàn thành: 123
– Kiểu loại: tàu phóng lôi
– Lượng giãn nước: 148 tấn (tiêu chuẩn); 172 tấn (đầy tải)
– Chiều dài: 34,08 m
– Độ rộng: 6,72 m
– Mớn nước: 1,46-1,5 m
– Động lực đẩy: Động cơ diesel-Trực tiếp: 3 động cơ diesel M503A, 3 trục, chân vịt cố định 3 cánh; 12.500 mã lực (9.300 kW)
– Tốc độ: 45 hl/g (83 km/h)
– Phạm vi hoạt động: 500 hl (930 km) ở tốc độ 35 hl/g (65 km/h)
– Quân số: 24
– Khí tài: Radar “Pot Drum”, “High Pole”, “Drum Tilt”
– Vũ khí:
+ 2 × 30 mm AK-230
+ 1 × tên lửa đất đối không SA-N-5 MANPAD (Strela-2)
+ 4 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 in) (thường là ngư lôi Type 53-56).
Lớp Shershen là tên NATO cho một lớp tàu phóng lôi được chế tạo cho Hải quân Liên Xô và các đồng minh. Tên gọi của Liên Xô là Project 206 Shtorm (Торпедный катер проекта 206 шифр «Шторм»).
Được chỉ định là TKAs (tàu phóng lôi), những chiếc tàu Project 183 được thiết kế như một phương tiện tấn công nhanh đơn giản phù hợp với chi phí sản xuất rẻ và dễ bảo trì. Được dự định là tàu kế nhiệm cho tàu phóng lôi Project 183 “Bolshevik”, việc phát triển lớp mới bắt đầu vào năm 1956. Giống như các tàu tương tự khác, chúng được sử dụng ven biển, trong điều kiện thời tiết tốt và dưới sự che chở của không quân.
Chiếc đầu tiên được hoàn thành tại Nhà máy đóng tàu Yaroslavl và được đưa vào biên chế Hải quân Liên Xô vào tháng 10/1960. Việc sản xuất cũng được tổ chức tại Nhà máy đóng tàu Sredne-Nevskiy và Sosnovskiy với tổng số 80 chiếc được đóng tại cả ba nhà máy đóng tàu. Một phiên bản xuất khẩu đơn giản hóa được đặt tên là Project 206E (NATO định danh là Mol). Bên cạnh các nhà máy đóng tàu của Liên Xô, Nhà máy đóng tàu Kraljevica của Tito theo giấy phép của SFR Nam Tư đã đóng 10 chiếc tàu Project 206 ban đầu cho Hải quân Nam Tư.
Việt Nam – 16 chiếc, được Liên Xô chuyển giao từ năm 1973 đến năm 1980. Chúng bắt đầu ngừng hoạt động vào khoảng năm 2000 và đến tháng 7/2006, chỉ còn 4 chiếc phục vụ. Các con tàu sống sót được lắp đặt 4 tên lửa SAM tầm ngắn SA-N-5./.