TÀU PHÁO (Gunboat)

Tàu pháo (Gunboat) là một phương tiện thủy hải quân được thiết kế với mục đích rõ ràng là mang theo một hoặc nhiều súng pháo để bắn phá các mục tiêu ven biển, trái ngược với những phương tiện quân sự được thiết kế cho hải chiến, hoặc để vận chuyển binh lính hoặc hàng tiếp tế.

Tàu pháo lớp Thượng Hải Type 062

Lịch sử

Thời kỳ tiền hơi nước

Trong kỷ nguyên thuyền buồm, tàu pháo thường là một con tàu nhỏ không có boong mang một khẩu pháo nòng trơn duy nhất ở mũi tàu, hoặc chỉ hai hoặc ba khẩu pháo như vậy. Tàu pháo có thể mang một hoặc hai cột buồm hoặc chỉ chạy bằng mái chèo, nhưng phiên bản một cột buồm dài khoảng 15 m là điển hình nhất. Một số loại tàu pháo mang hai khẩu pháo, hoặc có loại gắn một số khẩu xoay trên lan can.

Tàu pháo nhỏ có những lợi thế: nếu nó chỉ mang theo một khẩu pháo duy nhất, thì tàu (thuyền) có thể cơ động ở những vùng nước nông hoặc hạn chế – chẳng hạn như sông hoặc hồ – nơi những con tàu lớn hơn chỉ có thể di chuyển một cách khó khăn. Khẩu súng (pháo) mà những chiếc tàu như vậy mang theo có thể khá nặng; một khẩu nặng 32 pound chẳng hạn. Vì những chiếc tàu như vậy rẻ và được chế tạo nhanh chóng, nên các lực lượng hải quân ủng hộ chiến thuật bầy đàn: trong khi một đòn tấn công duy nhất từ ​​mạn khinh hạm sẽ phá hủy một tàu pháo, thì một khinh hạm đối mặt với một đội tàu pháo lớn có thể bị thiệt hại nghiêm trọng trước khi nó có thể đánh chìm hoàn toàn. Ví dụ: trong Trận Alvøen (1808) trong Chiến tranh tàu pháo 1807-1814, 5 tàu pháo Dano-Na Uy đã đánh bại khinh hạm đơn độc HMS Tartar. Tàu pháo được sử dụng trong Trận chiến đảo Valcour (1776) trên Hồ Champlain trong Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ hầu hết được xây dựng tại chỗ, chứng tỏ tốc độ xây dựng của chúng.

Tất cả các lực lượng hải quân của kỷ nguyên thuyền buồm đều có sẵn một số tàu pháo. Tàu pháo được sử dụng rộng rãi ở Biển Baltic vào cuối thế kỷ XVIII vì chúng rất phù hợp với các bãi đá ven biển rộng lớn và quần đảo của Thụy Điển, Phần Lan và Nga. Đặc biệt, sự cạnh tranh giữa Thụy Điển và Nga đã dẫn đến sự mở rộng mạnh mẽ của các hạm đội tàu pháo và sự phát triển của các loại tàu pháo mới. Hai quốc gia đã xung đột trong cuộc chiến tranh Nga-Thụy Điển 1788-1790, một cuộc xung đột lên đến đỉnh điểm trong Trận Svensksund quy mô lớn vào năm 1790, trong đó hơn 30.000 người và hàng trăm tàu pháo, thuyền buồm và các phương tiện có mái che khác đã tham gia. Phần lớn trong số này là các tàu được phát triển từ những năm 1770 trở đi bởi kiến ​​trúc sư hải quân Fredrik Henrik af Chapman cho hạm đội quần đảo Thụy Điển. Các thiết kế, được sao chép và cải tiến bởi hải quân đối thủ của Đan Mạch và Nga, lan sang Địa Trung Hải và Biển Đen.

Hai kiểu loại từng được biết đến phổ biến nhất:

– 1 “gun sloop” lớn hơn 20 m (từ tiếng Thụy Điển kanonslup) với 2 khẩu 24 pounder, một ở đuôi tàu và một ở mũi tàu.

– 1 “gun yawl” (kanonjolle) nhỏ hơn 15 m với một khẩu 24 pounder

Nhiều lực lượng hải quân vùng Baltic vẫn duy trì hoạt động của các tàu pháo cho đến nửa sau của thế kỷ XIX. Các tàu của Anh giao tranh với các tàu pháo lớn hơn 22 m của Nga ngoài khơi Turku ở đông nam Phần Lan vào năm 1854 trong Chiến tranh Krym. Các tàu Nga có biệt tài là những tàu chiến có mái chèo cuối cùng trong lịch sử xả súng trong cơn giận dữ.

Tàu pháo đóng một vai trò quan trọng trong kế hoạch xâm lược nước Anh của Napoléon Bonaparte vào năm 1804. Đan Mạch-Na Uy đã sử dụng chúng rất nhiều trong Chiến tranh tàu pháo. Từ năm 1803 đến năm 1812, Hải quân Hoa Kỳ có chính sách đặt lực lượng hải quân của mình trên các tàu pháo ven biển, thử nghiệm nhiều kiểu thiết kế khác nhau. Tổng thống Thomas Jefferson (tại chức: 1801-1809) và Đảng Dân chủ-Cộng hòa của ông phản đối một lực lượng hải quân mạnh, cho rằng tàu pháo là đủ để bảo vệ các cảng lớn của Hoa Kỳ. Chúng tỏ ra vô dụng trước sự phong tỏa của Anh trong Chiến tranh 1812.

Kỷ nguyên hơi nước

Với sự ra đời của năng lượng hơi nước vào đầu thế kỷ XIX, Hải quân Hoàng gia và các lực lượng hải quân khác đã chế tạo một số lượng đáng kể các tàu nhỏ được đẩy bằng mái chèo bên và sau đó là bằng chân vịt trục vít. Ban đầu, những con tàu này vẫn giữ lại các giàn buồm đầy đủ và sử dụng động cơ hơi nước để đẩy phụ.

Hải quân Hoàng gia Anh đã triển khai hai tàu pháo mái chèo bằng gỗ ở Lower Great Lakes và St. Lawrence River trong Cuộc nổi dậy năm 1837 ở Thượng và Hạ Canada. Hải quân Hoa Kỳ đã triển khai một tàu pháo mái chèo vỏ sắt, USS Michigan, đến Ngũ Đại Hồ vào năm 1844.

Von der Tann trở thành tàu pháo chạy bằng chân vịt đầu tiên trên thế giới. Nhà máy đóng tàu Conradi ở Kiel đã chế tạo tàu pháo 120 tấn chạy bằng hơi nước vào năm 1849 cho hải quân nhỏ của Schleswig-Holstein. Ban đầu được gọi là “Gunboat No. 1” (Tàu pháo số 1), Von der Tann là con tàu hiện đại nhất trong hải quân. Nó đã tham gia thành công trong Chiến tranh Schleswig lần thứ nhất năm 1848-1851.

Anh đã chế tạo một số lượng lớn tàu pháo chân vịt bằng gỗ trong những năm 1850, một số đã tham gia Chiến tranh Krym (1853-1856), Chiến tranh nha phiến lần thứ hai (1856-1860) và Cuộc binh biến của người da đỏ (1857-1859). Yêu cầu đối với tàu pháo trong Chiến tranh Krym được đặt ra vào năm 1854 để cho phép Hải quân Hoàng gia bắn phá các cơ sở ven biển ở Baltic. Những con tàu đầu tiên mà Hải quân Hoàng gia chế tạo đáp ứng được yêu cầu này là các tàu vũ trang lớp Arrow. Sau đó vào giữa năm 1854, Hải quân Hoàng gia Anh đã đặt hàng 6 tàu pháo lớp Gleaner, sau đó vào năm đó là đơn đặt hàng 20 tàu pháo lớp Dapper. Vào tháng 5/1855, Hải quân Hoàng gia đã triển khai 6 tàu pháo lớp Dapper ở Biển Azov, nơi chúng liên tục đột kích và phá hủy các cửa hàng xung quanh bờ biển của nó. Vào tháng 6/1855, Hải quân Hoàng gia Anh quay trở lại Baltic với tổng cộng 18 tàu pháo như một phần của hạm đội lớn hơn. Các tàu pháo đã tấn công nhiều cơ sở ven biển khác nhau, hoạt động cùng với các tàu chiến lớn hơn của Anh mà từ đó chúng thu hút nguồn cung cấp như than đá.

Tàu pháo đã trải qua sự hồi sinh trong Nội chiến Hoa Kỳ (1861-1865). Các lực lượng của Liên minh và Liên minh đã nhanh chóng chuyển đổi những chiếc thuyền chở khách hiện có thành những chiếc tàu hơi nước có bánh phụ có vũ trang. Sau đó, một số tàu chuyên dụng, chẳng hạn như USS Miami, đã tham gia vào cuộc chiến. Họ thường gắn 12 khẩu súng trở lên, đôi khi có cỡ nòng khá lớn và thường mang theo một số áo giáp. Đồng thời, tàu pháo của Anh từ thời Chiến tranh Krym bắt đầu hao mòn, nên một loạt lớp mới đã được đặt hàng. Việc xây dựng chuyển từ vỏ tàu hoàn toàn bằng gỗ sang hỗn hợp sắt-tếch.

Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, “tàu pháo” là tên gọi chung cho các tàu vũ trang nhỏ hơn. Chúng có thể được phân loại, từ loại nhỏ nhất đến loại lớn nhất, thành tàu pháo trên sông (river gunboats, river monitors), tàu pháo phòng thủ ven biển (coastal-defense gunboats) và tàu pháo chính thức cho các cuộc bắn phá ven biển. Trong những năm 1870 và 1880, Anh bắt đầu chế tạo cái gọi là tàu pháo “sắt phẳng” (flat-iron gunboats hay Rendel) để phòng thủ ven biển. Khi có ít cơ hội tái chế than, các tàu chở đầy đủ giàn buồm tiếp tục được sử dụng làm tàu pháo; HMS Gannet, một con tàu sloop được bảo quản tại Xưởng đóng tàu lịch sử Chatham ở Vương quốc Anh, minh họa cho loại tàu pháo này.

Trong Hải quân Hoa Kỳ, những con tàu này có ký hiệu phân loại thân tàu là “PG”, dẫn đến việc chúng được gọi là “patrol gunboats” (tàu pháo tuần tra). Chúng thường có lượng giãn nước dưới 2.000 tấn, dài khoảng 60 m, mớn nước 3,0-4,5 m) và đôi khi nhỏ hơn nhiều, và lắp một số súng pháo cỡ nòng lên đến 130-150 mm. Một đặc điểm quan trọng của chúng là khả năng hoạt động trên sông, cho phép chúng tiếp cận các mục tiêu trong đất liền theo cách không thể thực hiện được trước khi máy bay phát triển. Trong thời kỳ này, các cường quốc hải quân đã sử dụng tàu pháo cho các hành động của cảnh sát  ở các thuộc địa hoặc ở các nước yếu hơn, ví dụ như ở Trung Quốc. Loại tàu pháo này đã truyền cảm hứng cho thuật ngữ “gunboat diplomacy” (ngoại giao tàu pháo). Với việc bổ sung ngư lôi, chúng trở thành “torpedo gunboats” (tàu pháo phóng ngư lôi), được chỉ định bằng ký hiệu phân loại thân tàu PTG (Patrol Torpedo Gunboat – Tàu ngư lôi pháo tuần tra).

Ở Anh, những cải cách của Đô đốc Fisher vào những năm 1900 đã chứng kiến ​​việc loại bỏ phần lớn hạm đội tàu pháo. Một số ít vẫn phục vụ trong các vai trò khác nhau khi bắt đầu Thế chiến I năm 1914. Chiếc cuối cùng còn hoạt động là hai chiếc thuộc lớp Bramble thứ hai tồn tại cho đến năm 1926, thực hiện các cuộc tuần tra trên sông ở Tây Phi.

Tuy nhiên, trong hoàn cảnh của Thế chiến I (1914-1918), Hải quân Hoàng gia Anh đã tái trang bị các tàu pháo nhỏ có mớn nước nông 635 tấn (12 chiếc thuộc lớp Insect) với tốc độ đủ để hoạt động ở những dòng sông chảy xiết và được trang bị vũ khí tương đối nặng. Trong chiến tranh và trong thời kỳ hậu chiến, chúng được triển khai ở Romania trên sông Danube, ở Mesopotamia trên sông Euphrates và Tigris, ở miền bắc nước Nga trên Bắc Dvina và ở Trung Quốc trên sông Dương Tử. Ở Trung Quốc, trong tình trạng vô chính phủ và chiến tranh, họ tiếp tục bảo vệ lợi ích của Anh cho đến Thế chiến II; Các cường quốc phương Tây khác cũng hành động tương tự.

Ngày càng có nhiều tàu pháo lớn hơn được chế tạo vào cuối những năm 1930 cho vùng Viễn Đông. Một số đi thuyền ở đó; những chiếc khác được vận chuyển từng đoạn và lắp ráp lại tại Thượng Hải.

Thế chiến II

Vương quốc Anh

Hầu hết các tàu pháo của Anh ban đầu đóng ở Đông Á. Khi chiến tranh với Nhật Bản nổ ra, nhiều tàu trong số này đã rút về Ấn Độ Dương. Những chiếc khác được trao cho Hải quân Trung Hoa Dân Quốc (chẳng hạn như HMS Sandpiper, được đổi tên thành Ying Hao) và một số bị quân Nhật bắt giữ.

Một số sau đó được tái triển khai đến mặt trận Địa Trung Hải và hỗ trợ các hoạt động trên bộ trong chiến dịch Bắc Phi, cũng như ở một số vùng của Nam Âu.

Hoa Kỳ

Vào cuối năm 1941, các tàu Tuần tra Dương Tử của Hải quân Hoa Kỳ đóng tại Trung Quốc đã được rút về Philippines hoặc bị đánh đắm. Sau thất bại của Hoa Kỳ tại Philippines, hầu hết các tàu còn lại đều bị đánh đắm. Tuy nhiên, USS Asheville vẫn sống sót cho đến khi bị đánh chìm trong Trận chiến Java năm 1942.

Liên Xô

Trong những năm 1930, Hải quân Liên Xô bắt đầu phát triển những chiếc thuyền nhỏ bọc thép trên sông hay “xe tăng trên sông”: những con tàu có lượng giãn nước từ 26 đến 48 tấn, trên đó có gắn các tháp pháo của xe tăng.

Ba lớp, với số lượng 210 tàu, đã phục vụ từ năm 1934 đến năm 1945:

– Project 1124: vũ khí tiêu chuẩn của chúng ban đầu là 2 tháp pháo từ xe tăng T-28 hoặc T-34, mỗi tháp lắp một khẩu 76,2 mm và súng máy xe tăng Degtyaryov (DT), cũng như 2 khẩu phòng không – trong một số trường hợp là phía sau tháp pháo được thay thế bằng bệ phóng tên lửa Katyusha.

– Project 1125: một tháp pháo T-28/T-34 với khẩu 76,2 mm và DT, cũng như bốn súng máy AA.

– S-40: 1 tháp pháo T-34 với khẩu 76,2 mm và DT, cũng như bốn súng máy AA.

Với kíp vận hành từ 10 đến 20 người, tàu tăng ven sông (riverine tanks) có lượng giãn nước từ 26 đến 48 tấn, có lớp giáp dày 4-14 mm và dài từ 23 đến 25 m. Chúng đã chứng kiến ​​những hoạt động quan trọng ở Biển Baltic và Biển Đen từ năm 1941 đến năm 1945.

Chiến tranh Việt Nam

Tàu pháo ven sông của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam, bao gồm tàu tuần tra trên sông PBR (Patrol Boats River), được làm bằng sợi thủy tinh; tàu tuần tra nhanh PCF (Patrol Craft Fast), thường được gọi là Swift Boats, được chế tạo bằng nhôm; và Xuồng tuần tra hỗ trợ tấn công ASPB (Assault Support Patrol Boats) làm bằng thép. Các tàu cutter lớp Point 82 foot của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Hoa Kỳ đã bổ sung cho các tàu Hải quân Hoa Kỳ này. Những chiếc ASPB thường được gọi là thuyền “Alpha” và chủ yếu thực hiện nhiệm vụ quét mìn dọc theo các tuyến đường thủy, do chúng được chế tạo hoàn toàn bằng thép. ASPB là phương tiện đi trên sông duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được thiết kế và chế tạo đặc biệt cho Chiến tranh Việt Nam. Tất cả những chiếc thuyền này được giao cho “Hải quân nước nâu” của Hải quân Hoa Kỳ./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *