NATO sử dụng một hệ thống tên mã (code names), được gọi là tên báo cáo (reporting names), để biểu thị máy bay quân sự và các thiết bị khác được sử dụng bởi các quốc gia hậu Xô Viết, các quốc gia thuộc Hiệp ước Warsaw cũ, Trung Quốc và các quốc gia khác. Hệ thống hỗ trợ thông tin liên lạc quân sự bằng cách cung cấp các tên ngắn, một hoặc hai âm tiết, thay thế cho các tên riêng chính xác – có thể dễ bị nhầm lẫn trong các điều kiện hoạt động hoặc không được biết đến ở thế giới phương Tây.
Việc chỉ định tên báo cáo được quản lý bởi Hội đồng Khả năng Tương tác Không quân AFIC (Air Force Interoperability Council), trước đây được gọi là Ủy ban Điều phối Tiêu chuẩn hóa Không quân hoặc ASCC (Air Standardization Coordinating Committee), tách biệt với NATO. Có trụ sở tại Washington DC, AFIC bao gồm đại diện từ quân đội của ba thành viên NATO (Canada, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ) và hai quốc gia không thuộc NATO (Úc và New Zealand).
Khi hệ thống này được giới thiệu vào những năm 1950, các tên báo cáo cũng ngầm chỉ định máy bay thù địch tiềm ẩn. Tuy nhiên, kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, một số lực lượng không quân của NATO đã vận hành nhiều loại máy bay khác nhau với các tên báo cáo (ví dụ: “Fulcrum” (Mikoyan MiG-29).
Các biến thể của người Mỹ
Bộ Quốc phòng DOD (Department of Defense) Hoa Kỳ mở rộng tên báo cáo của NATO trong một số trường hợp. NATO đề cập đến các hệ thống tên lửa đất đối không gắn trên tàu hoặc tàu ngầm có cùng tên với các hệ thống trên đất liền tương ứng, nhưng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ gán một dãy số khác với hậu tố khác (ví dụ: SA-N- vis-à-vis. SA-) cho các hệ thống này. Các tên được giữ nguyên như một sự thuận tiện. Trường hợp không có hệ thống tương ứng, một tên mới được nghĩ ra.
Biệt danh của Liên Xô
Liên Xô không phải lúc nào cũng gán “tên phổ biến” chính thức cho máy bay của mình, nhưng biệt danh không chính thức là phổ biến như trong bất kỳ lực lượng không quân nào. Nói chung, các phi công Liên Xô không sử dụng tên NATO, thích một biệt danh khác, tiếng Nga. Một ngoại lệ là các phi công Liên Xô đánh giá cao mật danh “Fulcrum” của MiG-29, như một dấu hiệu cho thấy vai trò then chốt của nó trong hệ thống phòng không của Liên Xô.
Danh pháp
Để giảm nguy cơ nhầm lẫn, những cái tên khác thường hoặc bịa đặt đã được phân bổ, ý tưởng là những cái tên được chọn sẽ khó xảy ra trong cuộc trò chuyện bình thường và dễ ghi nhớ hơn.
Đối với máy bay cánh cố định, số lượng âm tiết cho biết loại động cơ của máy bay. Tên mã 1 âm tiết biểu thị động cơ pit-tông hoặc tuabin cánh quạt, trong khi tên mã 2 âm tiết biểu thị động cơ phản lực (jet engine).
Máy bay ném bom có tên bắt đầu bằng chữ “B” và các tên như “Badger” (Tupolev Tu-16), “Blackjack” (Tupolev Tu-160) và “Bear” (Tupolev Tu-95) đã được sử dụng. “Frogfoot”, tên báo cáo của Sukhoi Su-25, đề cập đến vai trò hỗ trợ trên không của máy bay. Các phương tiện vận chuyển có tên bắt đầu bằng “C” (cargo, có nghĩa là “hàng hóa”), dẫn đến các tên như “Condor” cho Antonov An-124 hoặc “Candid” cho Ilyushin Il-76.
Danh sách tên báo cáo của NATO
Tên lửa
Chữ cái đầu tiên của tên chỉ ra việc sử dụng thiết bị đó.
A – air-to-air missiles (tên lửa không đối không), ví dụ AA-2 Atoll: Danh sách tên báo cáo của NATO cho tên lửa không đối không.
K – air-to-surface missiles (tên lửa không đối đất, từ ký hiệu Kh của Nga), ví dụ AS-17 Krypton: Danh sách tên báo cáo của NATO cho tên lửa không đối đất.
G – surface-to-air missiles (tên lửa đất đối không, SAM, hoặc G đối không), bao gồm cả phóng từ tàu mặt nước và tàu ngầm, ví dụ SA-2 Guideline: Danh sách tên báo cáo của NATO cho tên lửa đất đối không.
S – surface-to-surface missiles (tên lửa đất đối đất):
– ship- and submarine-launched (phóng từ tàu mặt nước và tàu ngầm). Tên lửa trên đất liền có tiền tố SS-, ví dụ SS-1 Scud. Tên lửa hải quân nhận được ký hiệu SS-N-, ví dụ SS-N-2 Styx. Tên lửa phòng thủ bờ biển được gán tiền tố SS-C-, ví dụ SS-C-5 Stooge: Danh sách tên báo cáo của NATO cho tên lửa đất đối đất
– tên báo cáo cho anti-tank missiles (tên lửa chống tăng), bao gồm AT-5 Spandrel.
Phi cơ
Chữ cái đầu tiên cho biết loại máy bay, chẳng hạn như “Bear” (nghĩa là Gấu) cho máy bay ném bom đề cập đến Tupolev Tu-95 hoặc “Fulcrum” cho máy bay chiến đấu Mikoyan-Gurevich MiG-29. Đối với máy bay cánh cố định, tên 1 âm tiết được sử dụng cho máy bay cánh quạt và tên 2 âm tiết cho máy bay có động cơ phản lực. Sự khác biệt này không được thực hiện cho máy bay trực thăng.
F – fighter aircraft (máy bay chiến đấu), sau này cũng là ground attack aircraft (máy bay tấn công mặt đất): Danh sách tên báo cáo của AFIC cho máy bay chiến đấu.
B – bomber aircraft (máy bay ném bom): Danh sách tên báo cáo của NATO cho máy bay ném bom.
C – commercial aircraft and airliners, and cargo aircraft (máy bay thương mại và máy bay chở khách, và máy bay chở hàng): Danh sách tên báo cáo của NATO cho máy bay vận tải.
H – helicopters (trực thăng): Danh sách tên báo cáo của NATO cho máy bay trực thăng.
M – miscellaneous names (tên gọi linh tinh) được dùng cho máy bay huấn luyện, trinh sát, thủy phi cơ, tàu chở dầu, cảnh báo sớm trên không.
Tàu ngầm
Trước những năm 1980, tên báo cáo của tàu ngầm được lấy từ bảng chữ cái chính tả của NATO. Các sửa đổi của các thiết kế hiện có đã được đưa ra các thuật ngữ mô tả, chẳng hạn như “Whiskey Long Bin”. Từ những năm 1980, các thiết kế mới được đặt tên bắt nguồn từ các từ tiếng Nga, chẳng hạn như “Akula”, hoặc “shark” (cá mập). Những tên này không tương ứng với tên của Liên Xô. Thật trùng hợp, “Akula” được NATO gán cho tàu ngầm tấn công lại là tên gọi thực tế của Liên Xô dành cho tàu ngầm tên lửa đạn đạo mà NATO đặt tên là “Tourist-class”. Tên NATO cho tàu ngầm của Trung Quốc được lấy từ các triều đại Trung Quốc./.
Xem thêm:
NATO
CẤP BẬC VÀ PHÙ HIỆU TRONG NATO (Ranks and insignia of NATO)