TÀU QUÉT MÌN (Minesweeper)

Tàu quét mìn (Minesweeper) là một tàu chiến nhỏ được thiết kế để loại bỏ hoặc kích nổ thủy lôi (mìn biển hay mìn hải quân hay gọi tắt là mìn). Sử dụng nhiều cơ chế khác nhau nhằm chống lại mối đe dọa do thủy lôi gây ra, tàu quét mìn giữ cho đường thủy luôn thông thoáng để vận chuyển an toàn.

Lịch sử

Việc sử dụng thủy lôi sớm nhất được biết đến có từ thời nhà Minh. Tuy nhiên, các tàu quét mìn chuyên dụng chỉ xuất hiện nhiều thế kỷ sau trong Chiến tranh Krym, khi chúng được người Anh triển khai. Tàu quét mìn trong Chiến tranh Krym là những chiếc thuyền chèo tay kéo theo những chiếc móc sắt để gỡ mìn. Công nghệ quét mìn được áp dụng trong Chiến tranh Nga-Nhật, sử dụng các tàu phóng lôi cũ kỹ làm tàu ​​quét mìn.

Ở Anh, các nhà lãnh đạo hải quân trước khi Thế chiến I bùng nổ đã nhận ra rằng việc phát triển thủy lôi là mối đe dọa đối với hoạt động vận tải biển của quốc gia và bắt đầu nỗ lực chống lại mối đe dọa này. Sir Arthur Wilson lưu ý rằng mối đe dọa thực sự vào thời điểm đó là sự phong tỏa được hỗ trợ bởi mìn chứ không phải một cuộc xâm lược. Chức năng của tàu đánh cá với thiết bị lưới kéo của họ được công nhận là có mối liên hệ tự nhiên với việc rà phá bom mìn và, trong số những thứ khác, tàu đánh cá được sử dụng để giữ cho Kênh Anh không có mìn. Bộ phận tàu đánh cá của Lực lượng Dự bị Hải quân Hoàng gia đã trở thành tiền thân của lực lượng quét mìn với các tàu và thiết bị được thiết kế đặc biệt để đi theo. Những ngư dân thuộc Đội đánh cá dự bị này và các tàu đánh cá của họ đã được kích hoạt, được cung cấp thiết bị mìn, súng trường và đồng phục, đồng thời được trả lương như những người quét mìn đầu tiên. Tàu quét mìn chuyên dụng, được chế tạo có mục đích lần đầu tiên xuất hiện trong Thế chiến I với tàu quét mìn lớp Flower. Vào cuối Chiến tranh, công nghệ mìn của hải quân đã phát triển vượt quá khả năng phát hiện và gỡ mìn của các tàu quét mìn.

Việc quét mìn đã có những tiến bộ đáng kể trong Thế chiến II. Các quốc gia tham chiến nhanh chóng điều chỉnh các tàu cho nhiệm vụ quét mìn, trong đó có 35 tàu dân sự của Australia trở thành tàu quét mìn phụ trợ. Cả các nước Đồng minh và phe Trục đều sử dụng nhiều tàu quét mìn trong suốt cuộc chiến. Nhà sử học Gordon Williamson đã viết rằng “Chỉ riêng lực lượng quét mìn của Đức đã chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng sức mạnh của nước này và rất coi trọng những anh hùng thầm lặng của Kriegsmarine”. Thủy lôi vẫn là mối đe dọa ngay cả sau khi chiến tranh kết thúc, và các đội rà phá thủy lôi vẫn hoạt động sau Ngày VJ. Sau Thế chiến II, các nước Đồng minh đã nghiên cứu các loại tàu quét mìn mới, từ thiết kế nặng 120 tấn để dọn sạch các cửa sông cho đến tàu viễn dương nặng 735 tấn. Hải quân Hoa Kỳ thậm chí còn sử dụng tàu đổ bộ cơ giới hóa (LCM) chuyên dụng để quét các bến cảng nông trong và xung quanh Triều Tiên.

Tính đến tháng 6/2012, Hải quân Hoa Kỳ đã triển khai 4 tàu quét mìn tới Vịnh Ba Tư để giải quyết tình trạng bất ổn trong khu vực. Hải quân Hoàng gia cũng có 4 tàu quét mìn đóng tại Vịnh Ba Tư như một phần của Phi đội Biện pháp chống mìn số 9.

Vận hành và yêu cầu

Máy quét mìn được trang bị các thiết bị cơ hoặc điện, được gọi là “sweeps” (quét), để vô hiệu hóa mìn. Máy quét mìn hiện đại được thiết kế để giảm nguy cơ tự phát nổ mìn; nó được cách âm để giảm dấu hiệu âm thanh và thường được chế tạo bằng gỗ, sợi thủy tinh, kim loại màu hoặc được khử từ để giảm dấu hiệu từ tính của nó.

Quét cơ học là thiết bị được thiết kế để cắt cáp neo của các mìn neo và tốt nhất là gắn thẻ để hỗ trợ quá trình định vị và trung hòa sau này. Chúng được kéo phía sau tàu quét mìn và sử dụng thân được kéo (ví dụ oropesa, paravane) để duy trì khả năng quét ở độ sâu và vị trí mong muốn. Quét ảnh hưởng là thiết bị, thường được kéo, mô phỏng dấu hiệu tàu cụ thể, do đó khiến quả mìn phát nổ.

Có hai chế độ vận hành quét ảnh hưởng: chế độ cài đặt mìn MSM (mine setting mode) và chế độ mô phỏng mục tiêu hoặc chế độ cài đặt mục tiêu TSM (target simulation mode hoặc target setting mode). Việc quét MSM được thành lập dựa trên thông tin tình báo về một loại mìn nhất định và tạo ra công suất cần thiết để kích nổ loại mìn này. Nếu không có thông tin tình báo như vậy, thay vào đó, việc quét TSM sẽ tái tạo ảnh hưởng của con tàu thiện chiến sắp đi qua khu vực. Do đó, TSM quét sạch mìn hướng vào con tàu này mà không hề biết về mìn. Tuy nhiên, mìn nhắm vào các tàu khác có thể vẫn còn.

Tàu quét mìn (minesweeper) khác với tàu săn mìn (minehunter). Tàu săn mìn chủ động phát hiện và vô hiệu hóa từng quả mìn. Trong nhiều trường hợp, tàu quét mìn bổ sung cho tàu săn mìn, tùy thuộc vào hoạt động và môi trường; Đặc biệt, tàu quét mìn phù hợp hơn với việc rà phá các khu vực nước lộ thiên có số lượng mìn lớn. Cả hai loại tàu này đều được gọi chung là tàu đối phó mìn MCMV (mine countermeasure vessels), thuật ngữ này cũng được áp dụng cho tàu kết hợp cả hai vai trò./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *