ĐẠI TÁ (Colonel)

Đại tá (colonel, viết tắt là Col., Col hay COL) là cấp bậc sĩ quan cao cấp trong quân đội được sử dụng ở nhiều nước. Nó cũng được sử dụng trong một số lực lượng cảnh sát và các tổ chức bán quân sự.

Vào thế kỷ XVII, XVIII và XIX, một đại tá thường phụ trách một trung đoàn trong quân đội. Cách sử dụng hiện đại rất khác nhau và trong một số trường hợp, thuật ngữ này được sử dụng như một danh hiệu kính trọng có thể không liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ quân sự. Cấp bậc đại tá thường cao hơn cấp bậc trung tá (lieutenant colonel). Cấp bậc trên đại tá thường được gọi là tường lữ đoàn (brigadier hay brigade), hoặc chuẩn tướng (brigadier general). Trong một số lực lượng quân sự nhỏ hơn, chẳng hạn như ở Monaco hay Vatican, đại tá (colonel) là cấp bậc cao nhất.

Các cấp bậc hải quân tương đương có thể được gọi là “captain (thuyền trưởng tàu chiến cấp 1) hoặc “ship-of-the-line captain” (thuyền trưởng tàu trận tuyến trong lịch sử). Trong hệ thống xếp hạng lực lượng không quân của Khối thịnh vượng chung, cấp bậc tương đương là “group captain” (đại tá – cấp trưởng một nhóm máy bay).

Lịch sử và nguồn gốc

Vào cuối thời kỳ trung cổ, một nhóm “companies” được gọi là “column” của quân đội. Theo Raymond Oliver, khoảng những năm 1500, người Tây Ban Nha bắt đầu tổ chức lại một cách rõ ràng một phần quân đội của họ thành 20 “colunelas” hoặc “column” với khoảng 1.000-1.250 binh sĩ. Mỗi colunela được chỉ huy bởi một cabo de colunela hoặc người đứng đầu colunela. Bởi vì chúng là các đơn vị của quân vương, các đơn vị này còn được gọi một cách khó hiểu là coronelas và các coronels chỉ huy của chúng. Bằng chứng về điều này có thể được nhìn thấy khi Gonzalo Fernández de Córdoba, biệt danh là “the Great Captain” (Đội trưởng vĩ đại), chia quân đội của mình thành các coronelías, mỗi coronelas do một coronel chỉ huy, vào năm 1508.

Sau đó, vào thế kỷ XVI, quân đội Pháp áp dụng cơ cấu tổ chức này, đổi tên thành các trung đoàn colunelas. Mặc dù vậy, họ chỉ đơn giản là Gallic hóa colunela cho colonel Pháp và phát âm nó như chữ viết. Người Anh sau đó đã sao chép đơn vị và thứ hạng từ người Pháp. Tuy nhiên, không rõ vì lý do gì, người Anh đã áp dụng cách phát âm tiếng Tây Ban Nha của coronel và sau vài thập kỷ sử dụng đã rút ngắn nó thành cách phát âm hai âm tiết hiện tại là “kernel”. Colonel được liên kết với từ column (từ tiếng Latin: columa; tiếng Ý: colonna; tiếng Pháp: colonne) theo cách tương tự như brigadier (lữ đoàn trưởng) liên hê đến brigade (lữ đoàn), mặc dù trong tiếng Anh mối quan hệ này không rõ ràng ngay lập tức.

Với sự chuyển đổi từ quân đội chủ yếu là lính đánh thuê sang quân đội chủ lực trong thế kỷ XVII, một đại tá (thường là thành viên của tầng lớp quý tộc) đã trở thành người nắm giữ (tiếng Đức Inhaber) hoặc chủ sở hữu hợp đồng quân sự với quốc vương. Đại tá mua hợp đồng trung đoàn – quyền nắm giữ trung đoàn – từ người nắm giữ quyền đó trước đó hoặc trực tiếp từ chủ quyền khi một trung đoàn mới được thành lập hoặc một trung đoàn trưởng bị giết.

Khi chức vụ đại tá trở thành một thông lệ được thiết lập, đại tá trở thành đại tá cao cấp trong một nhóm các đại đội đều tuyên thệ tuân thủ quyền lực cá nhân của ông này – do ông này cai trị hoặc điều hành. Trung đoàn này, hay sự quản lý, ở một mức độ nào đó được thể hiện trong một hợp đồng và một bộ quy tắc bằng văn bản, còn được gọi là trung đoàn của đại tá hoặc (các) quy định nhất định. Nói rộng hơn, nhóm đại đội trực thuộc trung đoàn của một đại tá (theo nghĩa trên) được gọi là trung đoàn của ông ta (trong theo nghĩa hiện đại).

Theo cách sử dụng của người Pháp trong thời kỳ này, đại tá cấp cao trong quân đội hoặc, trong lực lượng dã chiến, nhà thầu quân sự cấp cao, là đại tá, và trong trường hợp không có chủ quyền hoặc người được ông ta chỉ định, đại tá có thể giữ chức vụ chỉ huy một lực lượng. Tuy nhiên, vị trí này chủ yếu mang tính hợp đồng và dần dần trở thành một sinecure không có chức năng. Người đứng đầu một trung đoàn hoặc lữ đoàn không đầy đủ sẽ được gọi là “mestre de camp” hoặc, sau Cách mạng, là “chef de brigade”.

Vào cuối thế kỷ XIX, đại tá đã phát triển thành cấp bậc quân sự chuyên nghiệp mà thông thường vẫn được giữ bởi một sĩ quan chỉ huy một trung đoàn hoặc đơn vị tương đương. Cùng với các cấp bậc khác, vấn đề ngày càng trở thành vấn đề về nhiệm vụ, trình độ và kinh nghiệm cũng như chức danh và thang lương tương ứng hơn là chức vụ chức năng trong một tổ chức cụ thể.

Khi ảnh hưởng quân sự của Châu Âu mở rộng trên toàn thế giới, cấp bậc đại tá đã được hầu hết các quốc gia chấp nhận (mặc dù dưới nhiều tên gọi khác nhau).

Trong thế kỷ XX, với sự nổi lên của chủ nghĩa cộng sản, một số quân đội cộng sản lớn thấy phù hợp để mở rộng cấp bậc đại tá thành nhiều cấp bậc, chẳng hạn, dẫn đến cấp bậc đại tá cấp cao (senior colonel) duy nhất, được biết đến và vẫn được sử dụng ở các quốc gia như Trung Quốc và Bắc Triều Tiên.

Colonel-in-chief (Đại tá danh dự)

Trong nhiều quân đội hiện đại, trung đoàn có tầm quan trọng như một đơn vị nghi lễ hoặc nơi tập trung lòng trung thành của các thành viên hơn là một đội hình chiến đấu thực sự. Quân đội có xu hướng được triển khai theo các tiểu đoàn (do một trung tá chỉ huy) như một quy mô đơn vị quân đội thuận tiện hơn và do đó, các đại tá có xu hướng có vai trò chuyên môn và chỉ huy cao hơn so với tư cách là chỉ huy thực tế của các trung đoàn. Tuy nhiên, trong quân đội Khối thịnh vượng chung, vị trí đại tá với tư cách là người đứng đầu trung đoàn được duy trì với vai trò danh dự là “colonel-in-chief”, thường do một thành viên hoàng gia, quý tộc hoặc quân nhân cấp cao đã nghỉ hưu nắm giữ. Colonel-in-chief mặc đồng phục đại tá và khuyến khích các thành viên của trung đoàn, nhưng không tham gia tích cực vào cơ cấu chỉ huy thực tế hoặc trong bất kỳ nhiệm vụ tác chiến nào.

Colonel of the Regiment (Đại tá trung đoàn)

Danh hiệu Đại tá trung đoàn (để phân biệt với cấp bậc đại tá trong quân đội) tiếp tục được sử dụng trong Quân đội Anh hiện đại. Chức vụ mang tính nghi lễ thường được trao cho các sĩ quan cấp tướng, chuẩn tướng hoặc đại tá đã nghỉ hưu, những người có mối liên hệ chặt chẽ với một trung đoàn cụ thể. Nhân viên phi quân sự, thường là các vị trí trong Quân đội dự bị cũng có thể được bổ nhiệm vào vị trí nghi lễ. Khi đảm nhận chức vụ “Đại tá trung đoàn”, người giữ chức vụ mặc quân phục trung đoàn có cấp bậc đại tá (đầy đủ), bất kể cấp bậc chính thức của họ. Thành viên của Hoàng gia được gọi là Đại tá hoàng gia (Royal Colonel). Một Đại tá trung đoàn phải hợp tác chặt chẽ với một trung đoàn và Hiệp hội trung đoàn của trung đoàn đó.

Phù hiệu của đại tá

Tùy thuộc mỗi quốc gia, mỗi quân đội, phù hiệu đại tá có thể được quy định khác nhau nhưng thường mang 3 hoặc 4 sao hay dấu hiệu tương đương sao (bông mai, hạt lúa, hạt cườm, vạch, lá phong…).

Đại tá là sĩ quan cấp cao nhất

Một số lực lượng quân sự có một đại tá là sĩ quan cấp cao nhất của họ, không có cấp tướng và không có thẩm quyền cấp trên (có lẽ ngoại trừ nguyên thủ quốc gia với tư cách là tổng tư lệnh danh nghĩa) ngoài chính phủ quốc gia tương ứng. Ví dụ bao gồm những điều sau đây (được sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái theo tên quốc gia):
– Antigua và Barbuda (170 nhân sự).
– Costa Rica (khoảng 8.000 nhân sự).
– Iceland (100 nhân viên, chỉ làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình).
– Libya (chỉ huy tất cả các lực lượng vũ trang – Muammar Gaddafi cho đến năm 2011).
– Monaco (hai chi nhánh, với tổng số khoảng 250 nhân sự).
– Suriname (1.800 nhân sự) (đến ngày 19/6/2020).
– Thành phố Vatican (110 nhân viên – Vệ binh Thụy Sĩ).

Các cách sử dụng khác của cấp bậc đại tá

Thuật ngữ colonel cũng được dùng làm chức danh cho những người điều hành đấu giá ở Hoa Kỳ; có rất nhiều lý thuyết hoặc từ nguyên dân gian để giải thích việc sử dụng thuật ngữ này. Một trong số đó là tuyên bố rằng trong Nội chiến Hoa Kỳ, hàng hóa bị quân đội tịch thu đã được đại tá của sư đoàn bán đấu giá.

Đại tá Kentucky (Kentucky colonel) là danh hiệu cao quý nhất do Khối thịnh vượng chung Kentucky ban tặng. Văn bằng bổ nhiệm dành cho đại tá Kentucky được Thống đốc và Bộ trưởng Ngoại giao trao cho các cá nhân để ghi nhận những thành tích đáng chú ý và dịch vụ xuất sắc cho cộng đồng, tiểu bang hoặc quốc gia. Điều này tương đương với một đại tá đầy đủ trong lực lượng dân quân. Thống đốc đương nhiệm của Khối thịnh vượng chung Kentucky trao tặng danh dự cho Ủy ban đại tá bằng cách cấp bằng chứng nhận. Có lẽ đại tá Kentucky được biết đến nhiều nhất là Harland Sanders của quán gà rán Kentucky nổi tiếng.

Cấp bậc đại tá cũng được một số lực lượng cảnh sát và tổ chức bán quân sự sử dụng.

Việt Nam

Trong lực lượng vũ trang Việt Nam, Đại tá là một trong hai cấp bậc sĩ quan cao cấp (gồm Đại tá và Thượng tá), trên Thượng tá, dưới Thiếu tướng hoặc Chuẩn Đô đốc (trong Hải quân), viết tắt là 4// (mang quân hàm 4 sao hai gạch). Đại tá là sĩ quan chỉ huy một đơn vị cấp Sư đoàn, Lữ đoàn và tương đương, có mức lương cơ bản 8,0./.

Bài viết được đề xuất

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *