Tổng quan:
– Nhà máy đóng tàu hải quân:
+ New York: BB-61 & BB-63
+ Philadelphia: BB-62, BB-64, & BB-65
+ Norfolk: BB-66
– Nhà vận hành: Hải quân Hoa Kỳ
– Lớp trước: South Dakota
– Lớp sau: Montana (chỉ là trong kế hoạch, chưa từng được chế tạo)
– Giá thành: 100 triệu USD mỗi tàu (thời giá những năm 1940)
– Lịch sử xây dựng: 1940-1944
– Trong biên chế: 1943-1958; 1968-1969; 1982-1992
– Đã lên kế hoạch đóng: 6
– Hoàn thành: 4
– Đã hủy kế hoạch: 2
– Đã nghỉ hưu: 4
– Bảo quản: 4
– Kiểu loại: Thiết giáp hạm
– Lượng giãn nước: 48.880 tấn (tiêu chuẩn); 58.460 tấn (đầy tải), 61.000 tấn (New Jersey 1968)
– Chiều dài: 270,43 m
– Chiều rộng: 32,97 m
– Mớn nước (New Jersey 1968): 11,33 m (đầy tải); 11,51 m (tối đa); 12,50 m (phía lái); 11,9 m (phía mũi)
– Nguồn điện lắp đặt: 8 x nồi hơi ống nước, 212.000 shp (158.000 kW)
– Động lực đẩy: 4 x chân vịt; 4 x tua bin hơi nước hộp số
– Tốc độ: 35,2 hl/g (65,2 km/h)
– Phạm vi hoạt động: 14.890 hl (27.580 km) ở tốc độ 15 hl/g (28 km/h)
– Thủy thủ đoàn: ~2.700 (Thế chiến II, Hàn Quốc); ~1.800 (thập niên 1980, Chiến tranh vùng Vịnh)
– Khí tài (Thế chiến II):
+ Radar điều khiển hỏa lực Mark 8
+ Radar điều khiển hỏa lực Mark 12/22
+ Radar SC-2 (Iowa và Wisconsin)
+ Radar SK /SK-2
+ Radar SG
+ Radar SR
Hàn Quốc, Việt Nam:
+ Radar điều khiển hỏa lực Mark 13
+ Radar điều khiển hỏa lực Mark 25
+ AN/SPS-6
+ AN/SPS-8
+ AN/SPS-10
Những năm 1980, Chiến tranh vùng Vịnh:
+ Radar điều khiển hỏa lực Mark 13
+ Radar điều khiển hỏa lực Mark 25
+ AN/SPS-49
+ AN/SPS-67
– Tác chiến điện tử và mồi bẫy: SPT-1/4 (Thế chiến II, Hàn Quốc)
+ Công cụ tìm hướng vô tuyến DBM
+ Thiết bị gây nhiễu TDY-1
Việt Nam:
+ Máy phát đánh lừa AN/ULQ-6
Những năm 1980, Chiến tranh vùng Vịnh:
+ Hệ thống tác chiến điện tử AN/SLQ-32(V)
+ Mồi nhử âm thanh AN/SLQ-25 Nixie
+ Tên lửa gây nhiễu Mark 36 SRBOC
– Vũ khí
Thế chiến II, Hàn Quốc:
+ 9 x 406 mm/50
+ 20 x 127 mm/38
+ 80 x 40 mm AA
+ 49 x 20 mm AA
Chiến tranh Lạnh, Chiến tranh vùng Vịnh:
+ 9 x 406 mm/50 cal
+ 12 x 127 mm/38 cal
+ 32 x Tomahawk BGM-109
+ 16 x Harpoon RGM-84
+ 4 x 20 mm Phalanx CIWS
– Vỏ giáp:
+ Đai: 307 mm
+ Vách ngăn: Iowa / New Jersey: 287 mm; Missouri / Wisconsin: 368 mm; Barbettes: 295-439 mm;
+ Tháp pháo: 241-495 mm
+ Tháp chỉ huy: 439 mm
+ Sàn: 38 mm, 152 mm, 16-25 mm
– Máy bay chở:
+ 3 x thủy phi cơ (Thế chiến II)
+ 3 x trực thăng (Hàn Quốc, Việt Nam)
+ 5 x UAV (Chiến tranh Lạnh, Chiến tranh vùng Vịnh).
Lớp Iowa là một lớp gồm 6 thiết giáp hạm nhanh được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng vào năm 1939 và 1940. Ban đầu chúng có mục đích đánh chặn các tàu chiến chủ lực nhanh như lớp Kongō của Nhật Bản, đồng thời có khả năng phục vụ trong chiến tuyến truyền thống cùng với các thiết giáp hạm chậm hơn và hoạt động như “cánh nhanh” của nó. Lớp Iowa được thiết kế nhằm đáp ứng “điều khoản thang cuốn” của Hiệp ước Hải quân London thứ hai về lượng giãn nước tiêu chuẩn 45.700 tấn. Bắt đầu từ tháng 8/1942, 4 chiếc Iowa, New Jersey, Missouri và Wisconsin đã được hoàn tất; 2 chiếc khác, Illinois và Kentucky, được đặt đóng nhưng bị hủy bỏ lần lượt vào năm 1945 và 1958 trước khi hoàn thành, và cả hai thân tàu đều bị tháo dỡ vào năm 1958-1959.
Bốn chiếc lớp Iowa là những thiết giáp hạm cuối cùng được đưa vào biên chế Hải quân Hoa Kỳ. Tất cả các thiết giáp hạm cũ của Hoa Kỳ đều được cho ngừng hoạt động vào năm 1947 và bị loại khỏi Danh sách Đăng ký Tàu Hải quân NVR (Naval Vessel Register) vào năm 1963. Từ giữa những năm 1940 đến đầu những năm 1990, các thiết giáp hạm lớp Iowa đã tham gia bốn cuộc chiến tranh lớn của Hoa Kỳ. Tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến II, chúng chủ yếu phục vụ như tàu hộ tống nhanh cho các tàu sân bay thuộc lớp Essex của Lực lượng Đặc nhiệm Tàu sân bay Nhanh và cũng pháo kích vào các vị trí của quân Nhật. Trong Chiến tranh Triều Tiên, các thiết giáp hạm đã hỗ trợ hỏa lực hải quân NGFS (naval gunfire support) cho lực lượng Liên Hợp Quốc, và vào năm 1968, New Jersey đã pháo kích vào lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam. Cả bốn chiếc đều được tái hoạt động và hiện đại hóa theo chỉ đạo của Quốc hội Hoa Kỳ vào năm 1981, và được trang bị tên lửa trong những năm 1980, như một phần của sáng kiến Hải quân 600 tàu. Trong Chiến dịch Bão táp Sa mạc năm 1991, Missouri và Wisconsin đã bắn tên lửa và pháo 406 mm vào các mục tiêu của Iraq.
Chi phí bảo trì tốn kém, các thiết giáp hạm này đã ngừng hoạt động trong đợt rút quân sau Chiến tranh Lạnh vào đầu những năm 1990. Cả bốn chiếc ban đầu đều bị xóa khỏi Sổ đăng ký tàu hải quân, nhưng Quốc hội Hoa Kỳ buộc Hải quân phải khôi phục hai chiếc trong số đó với lý do NGFS hiện tại sẽ không đủ cho các hoạt động đổ bộ. Điều này dẫn đến một cuộc tranh luận kéo dài về việc liệu thiết giáp hạm có nên có vai trò gì trong hải quân hiện đại hay không. Cuối cùng, cả bốn chiếc tàu đều bị loại khỏi Danh sách Đăng ký Tàu Hải quân và được thả để quyên góp cho các tổ chức phi lợi nhuận. Với việc chuyển giao Iowa vào năm 2012, cả bốn tàu đều là tàu bảo tàng thuộc các bảo tàng hàng hải phi lợi nhuận trên khắp nước Mỹ…
Lớp Iowa đã trở thành biểu tượng văn hóa tại Hoa Kỳ theo nhiều cách khác nhau, đến mức một số bộ phận trong công chúng Mỹ – chẳng hạn như Hiệp hội Hỗ trợ Hỏa lực Hải quân Hoa Kỳ – không sẵn lòng chia tay các thiết giáp hạm, bất chấp sự lỗi thời rõ ràng của chúng trong thế kỷ XXI. Học thuyết quân sự hải quân hiện đại nhấn mạnh vào ưu thế trên không và hỏa lực tên lửa. Mặc dù tất cả đều chính thức bị loại khỏi Danh sách Đăng ký Tàu Hải quân nhưng chúng không bị tháo dỡ và được tặng để sử dụng làm tàu bảo tàng.
Hồ sơ phục vụ càng làm tăng thêm danh tiếng của chúng, từ công việc hộ tống tàu sân bay trong Thế chiến II đến nhiệm vụ bắn phá bờ biển ở Bắc Triều Tiên, Bắc Việt Nam và Trung Đông, cũng như việc phục vụ trong Chiến tranh Lạnh chống lại Hải quân Liên Xô mở rộng. Danh tiếng của chúng kết hợp với những câu chuyện được kể liên quan đến hỏa lực của các khẩu pháo 16 inch của các thiết giáp hạm này đã mạnh đến mức khi chúng được cho nghỉ hưu vào những năm 1980, để đáp lại việc đưa vào hoạt động các tàu chiến-tuần dương lớp Kirov – Hải quân Hoa Kỳ nhận được vô số yêu cầu từ các cựu thủy thủ yêu cầu được triệu hồi trở lại làm nhiệm vụ tại ngũ để họ có thể phục vụ trên một trong các thiết giáp hạm.
Một phần vì thời gian phục vụ và thành tích của lớp tàu, các thành viên đã xuất hiện nhiều lần trong các chương trình truyền hình, trò chơi điện tử, phim ảnh và các phương tiện truyền thông khác, bao gồm cả sự xuất hiện của Kentucky và Illinois trong loạt phim hoạt hình Neon Genesis Evangelion, bộ phim tài liệu của Kênh Lịch sử. Loạt phim Battle 360: USS Enterprise, phim tài liệu của Discovery Channel Top 10 tàu chiến đấu (trong đó lớp Iowa được xếp hạng Số 1), cuốn sách được chuyển thể thành phim A Glimpse of Hell, video ca nhạc năm 1989 cho bài hát “If I Could Turn Back Time” của Cher; bộ phim Under Siege năm 1992, bộ phim Battleship năm 2012, cùng với những lần xuất hiện khác. Ban nhạc rock Nhật Bản Vamps biểu diễn phần cuối của chuyến lưu diễn Hoa Kỳ năm 2009 trên tàu Missouri vào ngày 19/9/2009.
Tàu trong lớp
– Iowa BB-61, biên chế lần 1 – 22/2/1943 (loại biên lần 1 – 24/3/1949 ); lần 2 – 25/8/1951 (loại biên lần 2 – 24/2/1958); lần 3 – 28/4/1984 (loại biên lần 3 – 26/10/1990). Được bảo quản như tàu bảo tàng ở Los Angeles, California.
– New Jersey BB-62, biên chế lần 1 – 23/5/1943 (loại biên lần 1 30/6/1948; lần 2 – 21/11/1950 (loại biên lần 2 – 21/8/1957); lần 3 – 6/4/1968 (loại biên lần 3 – 17/12/1969); lần 4 – 28/12/1982 (loại biên lần 4 – 8/2/1991). Được bảo quản như tàu bảo tàng ở Camden, New Jersey.
– Missouri BB-63, biên chế lần 1 – 11/6/1944 (loại biên lần 1 – 26/2/1955); lần 2 – 10/5/1986 (loại biên lần 2 – 1/3/1992). Được bảo quản như tàu bảo tàng ở Trân Châu Cảng, Hawaii.
– Wisconsin BB-64, biên chế lần 1 – 16/4/1944 (loại biên lần 1 – 1/7/1948); lần 2 – 3/3/1951 (loại biên lần 2 – 8/3/1958); lần 3 – 22/10/1988 (loại biên lần 3 – 30/9/1991). Được bảo quản như tàu bảo tàng ở Norfolk, Virginia.
– Illinois BB-65, đặt ky 9/9/1940 (chưa hoàn thành). Bị phá bỏ tại Philadelphia, 1958.
– Kentucky BB-66, đặt ky 9/9/1940 (chưa hoàn thành). Bị phá bỏ tại Baltimore, 1959./.