CHỦ NGHĨA TỰ DO (Liberalism)

Chủ nghĩa tự do là một trường phái tư tưởng trong lý thuyết quan hệ quốc tế xoay quanh ba nguyên tắc có liên quan với nhau:
– Từ chối chính trị quyền lực như là kết quả duy nhất có thể có của quan hệ quốc tế; nó đặt câu hỏi về các nguyên tắc an ninh/chiến tranh của chủ nghĩa hiện thực;
– Lợi ích chung và hợp tác quốc tế;
– Vai trò của các tổ chức quốc tế và các tác nhân phi chính phủ trong việc định hình các ưu tiên của nhà nước và các lựa chọn chính sách.

Trường phái tư tưởng này nhấn mạnh ba yếu tố khuyến khích sự hợp tác nhiều hơn và ít xung đột hơn giữa các quốc gia:
– Các tổ chức quốc tế, chẳng hạn như Liên hợp quốc, cung cấp diễn đàn để giải quyết các tranh chấp theo cách phi bạo lực;
– Thương mại quốc tế vì khi nền kinh tế các quốc gia được kết nối với nhau thông qua thương mại, họ ít có khả năng xảy ra chiến tranh với nhau hơn;
– Sự lan rộng của nền dân chủ, vì các nền dân chủ được thiết lập tốt được cho là không gây chiến với nhau, vì vậy nếu có nhiều nền dân chủ hơn, chiến tranh giữa các quốc gia sẽ ít xảy ra hơn.

Những người theo chủ nghĩa tự do tin rằng các thể chế quốc tế đóng vai trò chủ chốt trong hợp tác giữa các quốc gia thông qua sự phụ thuộc lẫn nhau. Có ba thành phần chính của sự phụ thuộc lẫn nhau:
– Các quốc gia tương tác theo nhiều cách khác nhau, thông qua các phương tiện kinh tế, tài chính và văn hóa;
– An ninh có xu hướng không phải là mục tiêu chính trong các tương tác giữa các quốc gia với nhau; và
– Lực lượng quân sự thường không được sử dụng.

Những người theo chủ nghĩa tự do cũng lập luận rằng ngoại giao quốc tế có thể là một cách rất hiệu quả để khiến các quốc gia tương tác với nhau một cách trung thực và ủng hộ các giải pháp phi bạo lực cho các vấn đề. Với các thể chế và ngoại giao phù hợp, những người theo chủ nghĩa tự do tin rằng các quốc gia có thể hợp tác với nhau để tối đa hóa sự thịnh vượng và giảm thiểu xung đột.

Chủ nghĩa tự do là một trong những trường phái chính của lý thuyết quan hệ quốc tế. Chủ nghĩa tự do bắt nguồn từ tiếng Latin, liber có nghĩa là “tự do”, ban đầu ám chỉ đến triết lý tự do. Nguồn gốc của nó nằm ở tư tưởng tự do rộng lớn hơn có nguồn gốc từ Kỷ nguyên Khai sáng. Các vấn đề trung tâm mà nó tìm cách giải quyết là các vấn đề đạt được hòa bình và hợp tác lâu dài trong quan hệ quốc tế, và các phương pháp khác nhau có thể góp phần vào việc đạt được chúng.

Những người ủng hộ chủ nghĩa tự do thường tin vào việc truyền bá dân chủ thông qua hợp tác.

Các lĩnh vực nghiên cứu

Các lĩnh vực nghiên cứu rộng trong lý thuyết quan hệ quốc tế tự do bao gồm:
– Lý thuyết hòa bình dân chủ và rộng hơn là ảnh hưởng của các loại chế độ chính trị trong nước và chính trị trong nước đến quan hệ quốc tế;
– Lý thuyết hòa bình thương mại, cho rằng thương mại tự do có tác dụng làm dịu quan hệ quốc tế. Các cuộc khám phá hiện tại về toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau là sự tiếp nối rộng hơn của dòng nghiên cứu này;
– Lý thuyết hòa bình thể chế, cố gắng chứng minh cách hợp tác có thể được duy trì trong tình trạng hỗn loạn, cách theo đuổi lợi ích lâu dài hơn lợi ích ngắn hạn và cách các bên có thể đạt được lợi ích tuyệt đối thay vì tìm kiếm lợi ích tương đối;
– Liên quan đến tác động của các tổ chức quốc tế đến chính trị quốc tế, cả về vai trò là diễn đàn để các quốc gia theo đuổi lợi ích của mình và vai trò là những chủ thể thực hiện quyền của mình;
– Vai trò của luật pháp quốc tế trong việc điều tiết hoặc hạn chế hành vi của nhà nước;
– Tác động của các chuẩn mực tự do lên chính trị quốc tế, đặc biệt là quan hệ giữa các quốc gia tự do;
– Vai trò của các loại liên minh khác nhau trong chính trị quốc tế (quan hệ), chẳng hạn như các liên minh được thể chế hóa cao (ví dụ NATO), các liên đoàn, liên minh, liên bang và các thực thể đang phát triển như Liên minh Châu Âu; và,
– Vai trò hoặc vai trò tiềm năng của chủ nghĩa quốc tế trong việc vượt qua nhà nước và ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế.

Lịch sử

Sơ khai

Chủ nghĩa tự do ban đầu xuất phát từ cả nguồn gốc học thuật sâu sắc và triết học. Với nguyên tắc chính của lý thuyết là hợp tác quốc tế và hòa bình, những ảnh hưởng ban đầu được nhìn thấy trong một số hoạt động tôn giáo lớn hơn chia sẻ cùng một mục tiêu. Sau đó vào thế kỷ XVII và XVIII, chủ nghĩa tự do chính trị bắt đầu có hình thức thách thức giới quý tộc và thừa hưởng bất bình đẳng. Tiếp theo ngay sau đó là Khai sáng, nơi các lý tưởng tự do bắt đầu phát triển với các tác phẩm của các nhà triết học như Voltaire, Locke, Smith và nhà tư tưởng người Đức Immanuel Kant. Một phần, các học giả tự do chịu ảnh hưởng của Chiến tranh Ba mươi năm và Khai sáng. Thời gian dài và những tác động thảm khốc của Chiến tranh Ba mươi năm đã gây ra sự khinh thường chung đối với chiến tranh trên khắp châu Âu. Các nhà tư tưởng, như Locke và Kant, đã viết về những gì họ nhìn thấy trên thế giới xung quanh họ. Họ tin rằng chiến tranh về cơ bản là không được ưa chuộng và con người sinh ra đã có một số quyền nhất định vì sự kết thúc của Chiến tranh Ba mươi năm đã chứng minh những ý tưởng này với họ.

John Locke thảo luận về nhiều ý tưởng hiện được cho là của Chủ nghĩa tự do trong Hai chuyên luận về chính phủ (Two Treatises of Government), xuất bản năm 1689. Trong chuyên luận thứ hai của mình, Locke bình luận về xã hội và phác thảo tầm quan trọng của các quyền tự nhiên và luật pháp. Locke tin rằng con người sinh ra như những tờ giấy trắng không có bất kỳ ý tưởng hay khái niệm nào được định sẵn. Trạng thái này được gọi là Trạng thái Tự nhiên (State of Nature) vì nó cho thấy con người ở dạng man rợ nhất của họ. Khi con người trưởng thành, những trải nghiệm của họ bắt đầu định hình suy nghĩ và hành động của họ. Họ tự nhiên ở trong Trạng thái Tự nhiên cho đến khi họ chọn không ở lại, cho đến khi có điều gì đó thay đổi bản chất man rợ của họ. Locke nói rằng, chính quyền dân sự có thể khắc phục tình trạng hỗn loạn này. Khi nói đến Luật Tự nhiên, mọi người có nhiều khả năng hành động hợp lý hơn khi có chính quyền tại chỗ vì có luật pháp và hậu quả phải tuân thủ. Locke lập luận rằng chính quyền dân sự có thể giúp mọi người đạt được các quyền cơ bản của con người về sức khỏe, tự do và sở hữu. Các chính phủ trao các quyền này và thực thi luật pháp sẽ mang lại lợi ích cho thế giới. Nhiều ý tưởng trong số này đã ảnh hưởng đến các nhà lãnh đạo như những người Lập quốc trong Cách mạng Hoa Kỳ và những nhà cách mạng Pháp trong Cách mạng Pháp.

Trong tác phẩm Đến hòa bình vĩnh cửu (To Perpetual Peace) của Kant, nhà triết học này đã mở đường bằng cách hình thành các nguyên tắc chỉ đạo để tạo ra một chương trình hòa bình được các quốc gia áp dụng. Chương trình này sẽ đòi hỏi sự hợp tác giữa các quốc gia cũng như việc cùng nhau theo đuổi tự do an toàn và lợi ích chung. Một trong những ý tưởng như vậy là Lý thuyết hòa bình dân chủ. Trong tác phẩm To Perpetual Peace, Kant đưa ra ý tưởng rằng các nền dân chủ không tiến hành chiến tranh vì các nhà lãnh đạo quá lo lắng về việc tái đắc cử. Vì chiến tranh vốn không được ưa chuộng, Kant nghĩ rằng các nhà lãnh đạo sẽ tránh gây gánh nặng cho cử tri về chi phí của nó. Sau khi chứng kiến ​​thành công trong việc đan xen các quốc gia thông qua liên minh kinh tế, những người ủng hộ chủ nghĩa tự do bắt đầu tin rằng chiến tranh không phải lúc nào cũng là một phần tất yếu của quan hệ quốc tế. Sự ủng hộ cho lý thuyết chính trị tự do tiếp tục phát triển từ đó.

Chủ nghĩa tân tự do

Lý thuyết hòa bình dân chủ của Kant đã được những người theo chủ nghĩa tự do mới như Robert Keohane và Joseph Nye sửa đổi. Những nhà lý thuyết này đã thấy rằng các nền dân chủ thực sự tiến hành chiến tranh. Tuy nhiên, các nền dân chủ không tiến hành chiến tranh với các nền dân chủ khác vì mối quan hệ tư bản. Các nền dân chủ phụ thuộc vào kinh tế và do đó có nhiều khả năng giải quyết các vấn đề bằng biện pháp ngoại giao. Hơn nữa, công dân trong các nền dân chủ ít có khả năng coi công dân trong các nền dân chủ khác là kẻ thù vì có chung đạo đức. Những ý tưởng ban đầu của Kant đã ảnh hưởng đến các học giả theo chủ nghĩa tự do và có tác động lớn đến tư tưởng tự do./.

Bài viết được đề xuất

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *