Chính trị cánh hữu (Right-wing politics) là phạm vi các hệ tư tưởng chính trị coi một số trật tự và hệ thống phân cấp xã hội là tất yếu, tự nhiên, bình thường hoặc đáng mong muốn, thường ủng hộ lập trường này dựa trên luật tự nhiên, kinh tế, thẩm quyền, tài sản, tôn giáo, sinh học hoặc truyền thống. Hệ thống phân cấp và bất bình đẳng có thể được coi là kết quả tự nhiên của sự khác biệt xã hội truyền thống hoặc sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường (market economy).
Chính trị cánh hữu được coi là đối trọng của chính trị cánh tả (left-wing politics), và phổ chính trị cánh tả-cánh hữu là phổ chính trị phổ biến nhất. Cánh hữu bao gồm những người bảo thủ xã hội và những người bảo thủ tài chính cũng như những người theo chủ nghĩa tự do cánh hữu. “Cánh hữu” (right và right-wing) đã được sử dụng khác nhau như những lời khen và lời miệt thị mô tả các ý tưởng kinh tế và xã hội tân tự do, bảo thủ và phát xít.
Vị trí
Các vị trí sau đây thường gắn liền với chính trị cánh hữu.
Chống cộng sản
Việc sử dụng ban đầu thuật ngữ “right-wing” (cánh hữu), liên quan đến chủ nghĩa cộng sản (communism), đặt những người bảo thủ ở bên phải, những người tự do ở trung tâm và những người cộng sản ở bên trái. Cả những người bảo thủ và những người tự do đều chống cộng mạnh mẽ, mặc dù sự chống cộng của những người bảo thủ mạnh hơn nhiều so với những người tự do. Lịch sử sử dụng thuật ngữ cánh hữu về chống cộng là một lịch sử phức tạp.
Các phong trào Marxist ban đầu đã xung đột với các chế độ quân chủ truyền thống cai trị phần lớn lục địa châu Âu vào thời điểm đó. Nhiều chế độ quân chủ châu Âu đã cấm việc công khai bày tỏ quan điểm cộng sản và Tuyên ngôn Cộng sản, bắt đầu “(một) bóng ma (đang) ám ảnh châu Âu”, và tuyên bố rằng các quốc vương lo sợ cho ngai vàng của họ. Việc ủng hộ chủ nghĩa cộng sản là bất hợp pháp ở Đế chế Nga, Đế chế Đức và Áo-Hung, ba chế độ quân chủ hùng mạnh nhất ở lục địa châu Âu trước Thế chiến I. Nhiều người theo chủ nghĩa quân chủ (trừ những người theo chủ nghĩa quân chủ lập hiến) coi sự bất bình đẳng về của cải và quyền lực chính trị là kết quả của một trật tự tự nhiên thiêng liêng. Cuộc đấu tranh giữa những người theo chủ nghĩa quân chủvà những người cộng sản thường được mô tả là cuộc đấu tranh giữa phe cánh hữu và cánh tả.
Đến Thế chiến I, ở hầu hết các chế độ quân chủ châu Âu, quyền thiêng liêng của các vị vua đã bị mất uy tín và được thay thế bằng các phong trào tự do và dân tộc chủ nghĩa. Hầu hết các quốc vương châu Âu trở thành những người đứng đầu, hoặc họ nhường một số quyền lực cho các chính phủ được bầu. Chế độ quân chủ bảo thủ nhất châu Âu, Đế chế Nga, đã bị thay thế bởi Liên Xô cộng sản. Cách mạng Nga đã truyền cảm hứng cho một loạt các cuộc cách mạng cộng sản khác trên khắp châu Âu trong những năm 1917-1923. Nhiều cuộc cách mạng trong số này, chẳng hạn như Cách mạng Đức, đã bị các đơn vị quân sự theo chủ nghĩa dân tộc và quân chủ đánh bại. Trong giai đoạn này, chủ nghĩa dân tộc bắt đầu được coi là cánh hữu, đặc biệt là khi nó phản đối chủ nghĩa quốc tế của những người cộng sản.
Những năm 1920 và 1930 chứng kiến sự suy tàn của chính trị cánh hữu truyền thống. Lớp áo của chủ nghĩa chống cộng bảo thủ đã được các phong trào phát xít đang nổi lên một mặt và những người bảo thủ tự do lấy cảm hứng từ nước Mỹ mặt khác tiếp quản. Khi các nhóm cộng sản và các đảng phái chính trị bắt đầu xuất hiện trên khắp thế giới, đối thủ của họ thường là chính quyền thực dân và thuật ngữ cánh hữu đã được áp dụng cho chủ nghĩa thực dân.
Sau Thế chiến II, chủ nghĩa cộng sản trở thành hiện tượng toàn cầu và chủ nghĩa chống cộng trở thành một phần không thể thiếu trong chính sách đối nội và đối ngoại của Hoa Kỳ và các đồng minh NATO. Chủ nghĩa bảo thủ trong thời kỳ hậu chiến đã từ bỏ nguồn gốc quân chủ và quý tộc của mình, thay vào đó tập trung vào chủ nghĩa yêu nước, các giá trị tôn giáo và chủ nghĩa dân tộc. Trong suốt Chiến tranh Lạnh, các chính phủ hậu thuộc địa ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latinh đã chuyển sang Hoa Kỳ để tìm kiếm sự hỗ trợ về chính trị và kinh tế. Những người cộng sản cũng là kẻ thù của chủ nghĩa tư bản (capitalism), coi Phố Wall là kẻ áp bức quần chúng. Hoa Kỳ đã đưa chủ nghĩa chống cộng (anti-communism) trở thành ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mình và nhiều người bảo thủ ở Hoa Kỳ đã tìm cách chống lại những gì họ coi là ảnh hưởng của cộng sản trong nước. Điều này dẫn đến việc áp dụng một số chính sách trong nước được gọi chung là chủ nghĩa McCarthy. Trong khi cả những người theo chủ nghĩa tự do và bảo thủ đều chống cộng, những người theo Thượng nghị sĩ McCarthy được gọi là cánh hữu và những người cánh hữu được gọi là những người tự do ủng hộ quyền tự do ngôn luận, ngay cả đối với những người cộng sản, cánh tả.
…