Tổng quan:
– Tên gọi: Khinh hạm (frigate) lớp Petya (Project 159)
– Có trong biên chế các nước: Liên Xô, Azerbaijan, Ai Cập, Ethiopia, Ấn Độ, Syria, Ukraina, Việt Nam
– Lớp trước: Lớp Riga (Project 50)
– Lớp sau: Lớp Mirka (Project 35)
– Lớp dưới: Lớp Arnala (hộ vệ)
– Đã đóng: 54
– Đang hoạt động: 8
– Loại biên: 46
– Lượng giãn nước: 970 tấn (tiêu chuẩn); 1.150 tấn (đầy tải)
– Chiều dài: 82,3 m
– Độ rộng: 9,2 m
– Mớn nước: 2,8 m
– Động lực đẩy:
+ 2 trục CODAG
+ 2 động cơ tua-bin khí – 30,000 hp (22,371 kW)
+ 1 động cơ diesel – 6,000 hp (4,474 kW)
– Tốc độ 30 hl/g (56 km/h)
– Tầm hoạt động:
+ 4.870 hl (9.020 km) ở 10 hl/g (19 km/h)
+ 450 hl (830 km) ở 30 hl/g (56 km/h)
– Thủy thủ đoàn: 90 (hoặc hơn)
– Khí tài:
+ Radar “Don-2” (Дон-2, cảnh báo sớm)
+ Radar “Slim Net” (cự li quan sát: 0,4-148,2 km)
+ Radar “Hawk Screech” (cự li quan sát: 0,2-22.2 km)
+ Sonar – Herkules (sonar nhúng)
– Vũ khí:
+ 2 x AK-726 76,2 mm
+ 4 x bệ bom chìm RBU-6000 (2 trong một số tàu)
+ Ống phóng ngư lôi chống ngầm 400 mm SET-40U/ SET-40UE (2×5)
+ Phiên bản xuất khẩu có ống phóng lôi 533 mm SET-53M (1 x 3).
Tàu 159 (tên NATO, lớp Petya) là một loại tàu khinh hạm (frigate, Liên Xô phân loại là “tàu tuần tiễu” – сторожевой корабль – СКР, Việt Nam gọi là “Tàu hộ vệ chống ngầm”) được chế tạo cho Hải quân Liên Xô trong thập niên 1960, có mã hiệu là Project 159.
Đây là loại tàu đầu tiên chạy bằng động cơ tua-bin khí của Hải quân Liên Xô. Vai trò của những tàu này là chống ngầm tại các vùng nước nông và chúng tương tự như các tàu thuộc lớp tàu hộ tống Mirka. Tính năng kỹ chiến thuật được công bố năm 1955 và thiết kế được thông qua năm 1956. 159 có 3 trục, trong đó, 1 chân vịt giữa dùng động cơ diesel để tăng tính kinh tế khi tuần tra thông thường và 2 trục chân vịt bên sử dụng động cơ tua-bin khí để có tốc độ cao. Trang bị pháo 2 x 76 mm phía trước và sau, được điểu khiển chung bởi một radar giám sát. Vũ khí chống ngầm gồm các bệ phóng rocket RBU-6000 và một bệ phóng lôi chống tàu ngầm 400 mm. Một số tàu được thiết kế cho xuất khẩu thay thế các ống phóng lôi 400 mm bằng ống phóng lôi chống tàu 533 mm. Một bộ thiết bị sonar đầy đủ gồm cả VDS (sonar độ sâu thay đổi) cũng được trang bị.
Có tổng cộng 54 tàu đã được đóng tại 2 xưởng đóng tàu: Kaliningrad Yantar (22 tàu) và Khabarovsk (32). Tất cả các tàu của Liên Xô đã ngừng hoạt động từ năm 1989-1992 nhưng một số vẫn đang phục vụ các nước xuất khẩu đến.
Azerbaijan – 1 chiếc
Ai Cập – 4 chiếc được mua năm 1965-1971, 1 chiếc bị chìm trong chiến đấu năm 1973, 1 chiếc vẫn đang hoạt động.
Ethiopia – 4 chiếc – bán phế liệu ở Djibouti sau khi Eritrea độc lập.
Ấn Độ – 11 chiếc thuộc lớp tàu corvette Arnala (tất cả đều đã loại khỏi biên chế). Được phân loại là tàu corvette (tàu hộ vệ) do kích thước và vai trò của tàu nhỏ hơn.
Syria – 2 tàu từng hoạt động trong tình trạng vô chủ tại cảng Tartus (Có thể đã loại biên vào năm 2017 hoặc 2018). 1 khinh hạm Syria đã ngừng hoạt động khi không quân Nga đánh chìm trong một cuộc huấn luyện bắn đạn thật (do Su-34 với tên lửa Kh-35, không đối hạm) vào ngày 15/4/2018 ngoài khơi Syria.
Ukraina – 1 tàu. Thủy thủ đoàn thân Ukraine của khinh hạm SKR-112 đã thực hiện quá trình chuyển đổi độc lập khỏi Hạm đội Biển Đen do Moscow kiểm soát vào ngày 21/7/1992. Con tàu này thuộc biên chế của Ukraine cho đến khi ngừng hoạt động vào năm 1997.
Việt Nam – 5 tàu (vẫn đang hoạt động)./.