Tổng quan:
– Xuất xứ: Liên Xô
– Kiểu loại: ngư lôi hạng nặng
– Lịch sử phục vụ: từ 1961 (SAET-60); từ 1969 (SAET-60M)
– Lịch sử phát triển: 1957-1960 (SAET-60); giữa đến cuối những năm 1960 (SAET-60M)
– Nhà phát triển: Gidropribor
– Sản xuất: từ những năm 1960 (nay đã dừng sản xuất)
– Nhà sản xuất: Nhà máy Dagizel
– Tên gọi: Izdeliye 228 (chỉ định theo danh mục); DEST (ngư lôi điện dẫn đường tầm xa)
– Người dùng chính: Liên Xô
– Nền tảng phóng: tàu ngầm
– Mục tiêu: tàu mặt nước
– Đường kính: 533 mm
– Chiều dài: 7,80 m
– Trọng lượng: 1.855 kg
– Đầu đạn: 300 kg
– Ngòi nổ: tiếp xúc và tiệm cận
– Dẫn hướng: tự dẫn âm thanh thụ động và dẫn hướng bằng dây
– Nguồn năng lượng: ắc-quy kẽm bạc, 46 cell
– Động lực đẩy: chân vịt đôi ngược chiều
– Tốc độ: 42 hl/g
– Phạm vi hoặt động: 13 km ở 42 hl/g (SEAT-60); SEAT-60M thêm chế độ 15 km ở 35 hl/g
– Độ sâu phóng: đến 400 m.
SAET-60 là loại ngư lôi hạng nặng có nguồn gốc từ Liên Xô. SAET-60 là ngư lôi dẫn đường bằng âm thanh thụ động được phóng từ tàu ngầm chống lại các tàu nổi. Hầu hết các loại ngư lôi trước đây của Liên Xô được sử dụng để chống lại các tàu nổi đều là loại không định hướng hoặc tự định hướng. SAET-60 sử dụng một động cơ điện và có đầu đạn nổ mạnh 300 kg với ngòi nổ tiệm cận và va chạm. SAET-60 có lịch sử phục vụ lâu dài. Điều này chủ yếu là do khả năng chống tàu mặt nước hạn chế của ngư lôi mục đích kép USET-80.
Các biến thể của SAET-60
– SEAT-60: nguyên bản ban đầu. Chính thức được thông qua vào năm 1960, nhưng được đưa vào hoạt động ở đâu đó giữa năm 1961 và 1966.
– SAET-60M: Biến thể cải tiến của SAET-60, còn được gọi là SAET-M. Được giới thiệu vào năm 1969. Nó có thêm cài đặt tốc độ thứ hai với tầm bắn xa hơn và có đầu đạn nhẹ hơn.
– SAET-60A: Bản sửa đổi của SAET-60M có tính năng đầu vào điều khiển hỏa lực kỹ thuật số như được sử dụng trong các tàu ngầm lớp Project 705 Lira (tên NATO: Alfa) tự động hóa cao.
– SAET-60ME: Phiên bản xuất khẩu của SAET-60M./.